Việc Cửu đỉnh ở Hoàng cung Huế được ghi danh Di sản Tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương, đã nâng tổng số di sản tư liệu của Việt Nam được UNESCO ghi danh lên 10 di sản (gồm 3 Di sản Tư liệu Thế giới và 7 Di sản Tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương).
Ba Di sản tư liệu quý giá mang tầm thế giới
1. Mộc bản triều Nguyễn
Mộc bản triều Nguyễn được công nhận năm 2009, là Di sản Tư liệu Thế giới đầu tiên của Việt Nam được UNESCO công nhận.
Mộc bản là bản gỗ khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm ngược để in ra thành trang sách. Đây là kỹ thuật in ấn thời kỳ trước.
Một bản khắc mộc bản về chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa.
Mộc bản triều Nguyễn gồm 34.555 tấm mộc bản, “chế bản” của 152 đầu sách với nhiều chủ đề khác nhau như lịch sử, địa lý, chính trị-xã hội, quân sự, pháp chế, giáo dục, văn thơ…
Tài liệu mộc bản có nhiều tác phẩm quý hiếm như “Đại Nam thực lục,” “Đại Nam nhất thống chí,” “Khâm định Việt sử thông giám cương mục,” “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ”…, ngoài ra còn có các tác phẩm “Ngự chế văn,” “Ngự chế thi” do các vị hoàng đế nổi tiếng như Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức sáng tác.
Nội dung của khối tài liệu Mộc bản Triều Nguyễn rất phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt xã hội Việt Nam trong thời kỳ phong kiến như lịch sử, địa lý, chính trị-xã hội, quân sự, pháp chế, văn hóa-giáo dục, tôn giáo-tư tưởng-triết học, văn thơ, ngôn ngữ-văn tự.
2. Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám
Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới năm 2011.
82 bia tiến sĩ tương ứng với 82 khoa thi từ năm 1484 – 1780, ghi tên các vị đỗ đại khoa tại các khoa thi. Đây là những bản tư liệu gốc duy nhất hiện còn ở Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được coi là một trong những di sản văn hóa vô giá của cha ông để lại. Đó cũng là những tư liệu chân thực, phản ánh bức tranh sinh động về chế độ đào tạo và tuyển dụng nhân tài ở Việt Nam, kéo dài hơn 300 năm dưới thời Lê-Mạc.
Bia tiến sĩ tại Văn Miếu-Quốc Tử Giám.
Hệ thống 82 bia tiến sĩ còn là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, phản ánh nghệ thuật điêu khắc của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam. Mỗi bài ký trên bia là một áng văn chương mẫu mực, thể hiện tư tưởng triết học, sử học, những quan điểm về giáo dục, đào tạo và trọng dụng nhân tài.
3. Châu bản triều Nguyễn
Được công nhận là Di sản Tư liệu Thế giới năm 2017, Châu bản triều Nguyễn là các tài liệu hành chính của triều Nguyễn – triều đại cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam (1802 – 1945).
Di sản tư liệu thế giới Châu bản triều Nguyễn thể hiện rõ hoạt động bảo đảm an ninh vùng biển Quảng Nam-Đà Nẵng thời Nguyễn.
Các tài liệu này được hình thành trong hoạt động của lý nhà nước dưới triều Nguyễn, bao gồm: văn bản của các cơ quan trong bộ máy chính quyền trung ương và địa phương trình lên nhà vua phê duyệt, văn bản của các vua triều Nguyễn ban hành và một số văn kiện ngoại giao.
Đây là khối tài liệu hành chính duy nhất còn lưu giữ được của một vương triều phong kiến Việt Nam, lưu giữ bút tích của các vua triều Nguyễn phê duyệt các vấn đề của đất nước.
Bảy di sản tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương
1. Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang)
Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu khu vực châu Á-Thái Bình Dương năm 2012.
Những tấm Mộc Bản được cất giữ cẩn thận tại chùa Vĩnh Nghiêm.
Bộ mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu bằng chữ Hán và chữ Nôm, gồm 3.050 đơn vị ván khắc, trong đó có 2 bộ kinh phật và luật sa di giới, luận bàn, giải thích về kinh phật và trước tác của Phật hoàng Trần Nhân Tông cùng các vị cao tăng thiền phái Trúc Lâm.
Giá trị đặc biệt của các mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm ở chỗ tư tưởng, giáo lý của Thiền viện Trúc Lâm được lưu khắc hết sức rõ nét và mang đậm bản sắc dân tộc cùng những giá trị nhân văn sâu sắc được thể hiện công phu trên mỗi mộc bản.
2. Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế
Được UNESCO công nhận năm 2016, hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế gồm những tác phẩm tinh tuyển từ vô số các trước tác của các vị hoàng đế triều Nguyễn, bắt đầu được sử dụng để trang trí trên cung điện, đền miếu, lăng tẩm hoàng gia từ thời Minh Mạng (1820-1841) đến thời Khải Định (1916-1925).
Ngoài số lượng đồ sộ, ở đây còn có tính điển hình về phong cách trang trí “nhất thi nhất họa.”
Các bài thơ được trang trí ở điện Thái Hòa với nội dung là ca ngợi đất nước, nhân dân thái bình và miêu tả cảnh sắc của đất nước.
Theo nhiều nghiên cứu, hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là một nghệ thuật trang trí đặc biệt, là di sản quý giá, không thấy xuất hiện ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới
Ngoại trừ một số di tích quan trọng được trang trí rất nhiều thơ văn đã bị phá hủy trong chiến tranh (1947) như Thái Tổ Miếu, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, điện Khôn Thái…, danh mục di tích có văn tự và số lượng ô văn tự hiện còn (chưa tính số ô hộc thơ khảm sành sứ ở lăng Khải Định) thì có tới 2.742 ô thơ.
Riêng ở Hoàng Thành, Điện Thái Hòa có 242 ô thơ, sơn son thếp vàng; Thế Miếu có 679 ô thơ, sơn son thếp vàng; Hưng Miếu có 110 ô thơ, sơn son thếp vàng; Triệu Miếu có 62 ô thơ, sơn son thếp vàng.
Các lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, Đồng Khánh, Quốc Tử Giám – Tân Thơ Viện… cũng được trang trí ô thơ, sơn son thếp vàng với số lượng lớn.
3. Mộc bản trường học Phúc Giang
Đây là khối mộc bản duy nhất, cổ nhất về giáo dục của một dòng họ còn lưu giữ được ở Việt Nam từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20, tại trường học Phúc Giang, làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, tổng Lai Thạch, huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, trấn Nghệ An, hiện là làng Trường Lưu, xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
Khối mộc bản được khắc chữ Hán ngược để in 3 tập sách giáo khoa kinh điển (gồm 12 quyển): “Tính lý toản yếu đại toàn,” “Ngũ kinh toản yếu đại toàn” và “Thư viện quy lệ.”
Mộc bản Trường học Phúc Giang.
Mộc bản trường học Phúc Giang được khắc từ năm 1758-1788, gắn với 3 thế hệ cha con, ông cháu, anh em gồm 5 danh nhân: Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Tự.
Mộc bản được sử dụng liên tục cho việc dạy và học của hàng nghìn thầy giáo và học sinh qua gần 3 thế kỷ (từ thế kỷ 18-20).
Mộc bản trường học Phúc Giang là tập tư liệu gốc, duy nhất do các danh nhân dòng họ Nguyễn Huy cùng đội ngũ thợ khắc tạo ra từ giữa thế kỷ 18.
Mộc bản trường học Phúc Giang được UNESCO công nhận là Di sản Tư liệu khu vực châu Á- Thái Bình Dương năm 2016.
4. Hoàng hoa sứ trình đồ (Hành trình đi sứ Trung Hoa)
“Hoàng Hoa sứ trình đồ” là cuốn sách cổ, miêu tả về một trong những hoạt động ngoại giao của Việt Nam và Trung Hoa trong thế kỷ 18. Đó là việc đi sứ của sứ bộ Việt Nam sang Trung Hoa, thể hiện việc giao lưu giữa các quốc gia ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Cuốn sách “Hoàng Hoa sứ trình đồ” được Nguyễn Huy Triển sao lại năm 1887 từ bản gốc của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh, hiện đang được dòng họ Nguyễn Huy-Trường Lưu, xã Trường Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh lưu giữ. Cuốn sách có kích thước 30cm x 20cm, dày 2cm được in trên bản mộc giấy dó.
Hoàng Hoa sứ trình đồ.
“Hoàng Hoa sứ trình đồ” chứa nhiều tư liệu minh chứng cho hoạt động ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Hoa từ giữa thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 18. Đây cũng là tác phẩm quý hiếm và độc đáo, có giá trị về địa lý, lịch sử, chính trị, ngoại giao, văn hóa, phong tục, nghệ thuật…
“Hoàng Hoa sứ trình đồ” được UNESCO công nhận năm 2018 và đánh giá là một hồ sơ quý, hiếm nói về quan hệ ngoại giao giữa hai nước trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong thế kỷ thứ 18, đóng góp vào việc duy trì nền hòa bình giữa các dân tộc trong khu vực và trên thế giới.
5. Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng (được công nhận năm 2022)
Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng, được công nhận năm 2022, là kho tàng di sản tư liệu quý giá bằng chữ Hán và chữ Nôm, với số lượng lớn, gồm 78 bia ma nhai (trong đó có 76 bia chữ Hán và 2 bia chữ Nôm).
Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng.
Nội dung, phong cách biểu hiện đa dạng, hình thức độc đáo, với nhiều thể loại như ngự bút, bia ký, tán, thơ văn, đề từ, đề danh, câu đối… của các vị vua, quan triều Nguyễn, cao tăng, cùng bao thế hệ tao nhân, mặc khách đã từng dừng chân lưu đề trên vách đá, hang động tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, từ nửa đầu thế kỷ 17 đến thập niên 60 của thế kỷ 20.
Bia ma nhai là những tư liệu cực kỳ giá trị, chân xác và đặc sắc, thể hiện rõ tính giao thoa, hòa điệu về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các quốc gia như Nhật Bản-Trung Hoa-Việt Nam tại Việt Nam từ thế kỷ 17-20. Đây là các tác phẩm trên đá độc đáo ấn tượng, nhiều kiểu chữ viết như Chân, Hành, Thảo, Triện, Lệ…
6. Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689 – 1943) (được công nhận năm 2022)
“Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh (1689-1943)” là bộ sưu tập độc bản được viết bằng tay, gồm 26 sắc phong gốc do các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng; 19 tờ văn bằng, 3 bức trướng bằng lụa, viết bằng chữ Hán, chữ Nôm từ năm 1689 đến năm 1943.
Tờ sắc phong cho cụ Nguyễn Công Ban (1693), một trong những sắc phong thuộc bộ sưu tập Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu.
Văn bản có giá trị nguyên gốc, độc bản, nguồn gốc rõ ràng và các sự kiện liên quan… đã từng làm nguồn tư liệu để biên soạn sách, nhiều thông tin có thể kiểm chứng, đối chiếu qua các tài liệu chính sử của Việt Nam như Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục; cũng như qua các sách khảo cứu như Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch.
Được công nhận năm 2022, đây là các tư liệu gốc giúp nghiên cứu quan hệ xã hội, lịch sử phát triển của làng thời xưa, đặc biệt trong giai đoạn từ cuối thế kỷ 17 đến giữa thế kỷ 20.
7. Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế
Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế là dương bản duy nhất, hiện đặt trước sân Thế Tổ Miếu trong Hoàng cung Huế, gồm 162 hình ảnh và chữ Hán được vua Minh Mạng cho đúc tại Huế vào năm 1835 và hoàn thành năm 1837.
Đây là nguồn tư liệu độc đáo, quý hiếm được giới nghiên cứu Việt Nam và nước ngoài rất quan tâm bởi nó mang giá trị nội dung về lịch sử, văn hóa-giáo dục, địa lý, phong thủy, y dược, nghệ thuật thư pháp.
Đặc biệt là đề cao thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, vua Minh Mạng đã dùng hình thức đặt tên người phụ nữ lên dòng kênh để ghi dấu công lao, điều mà rất hiếm thấy dưới chế độ phong kiến.
Họa tiết Hải Vân quan được chạm khắc trên cửu đỉnh.
Đáng lưu ý nhất là nghệ thuật đúc đồng và kỹ thuật của người thợ để tạo nên tác phẩm đặc sắc, độc đáo. Đặc biệt, do ảnh hưởng sâu đậm nền văn hóa phương Đông về quan niệm con số “9” và đúc chín đỉnh là bao hàm ý nghĩa tính thống nhất và trường tồn của triều đại.
Các bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng đảm bảo tính nguyên vẹn, là “nhân chứng” lịch sử chứng kiến sự thăng trầm của triều đại, và điều quan trọng nhất là di sản tư liệu này được thể hiện dưới dạng hình ảnh và chữ Hán vẫn còn nguyên vẹn và ngay cả vị trí đặt chín chiếc đỉnh cũng chưa từng bị dịch chuyển.
Những bản đúc nổi trên chín đỉnh đồng ở Hoàng cung Huế còn lưu trữ các giá trị về mối quan hệ giao thoa và tiếp xúc văn hóa xã hội của đất nước Việt Nam với các quốc gia trong khu vực Đông Á.