– Cách đây 79 năm, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhân dân cả nước đã đồng lòng đứng lên tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc – kỷ nguyên độc lập, tự do. Cách mạng tháng Tám thành công, khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, đồng thời cũng khẳng định sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc đã tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin vào trong nước, chuẩn bị những điều kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt trọng đại của cách mạng Việt Nam.
Sự chủ động, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc
“Chánh cương vắn tắt” của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, xác định nhiệm vụ: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”. Đường lối cứu nước đó của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, tập trung vào giải quyết mâu thuẫn cơ bản, chủ yếu của xã hội thuộc địa, kết tinh trí tuệ, khát vọng giải phóng dân tộc của đồng bào, phù hợp với sự biện chứng của lịch sử và xu thế thời đại.
Tháng 10/1930, “Luận cương chánh trị” của Đảng Cộng sản Đông Dương, đặt ở vị trí cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền “thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập”. Có thể thấy rằng, “Chánh cương vắn tắt” và “Luận cương chánh trị” tháng 10/1930 đều thống nhất coi đế quốc và phong kiến là hai đối tượng mà cách mạng tư sản dân quyền cần đánh đổ mới có thể giành được quyền độc lập dân tộc, thiết lập chính quyền của số đông dân chúng là công nông hoặc công nông binh.
Nội dung “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt của Đảng” cho thấy rõ lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội nghị thành lập Đảng coi nhiệm vụ chống đế quốc là chính yếu nhất và huy động tối đa lực lượng toàn dân tộc để thực hiện.
Vị trí và tầm quan trọng hàng đầu của nhiệm vụ chống đế quốc bên cạnh nhiệm vụ chống phong kiến, chia ruộng đất cho dân cày và phát huy sức mạnh dân tộc bao hàm trong các văn kiện “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” của Đảng được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm, xác nhận là đúng đắn và những tiến bộ trong nhận thức lý luận cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa của đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng đã mở ra một hướng thống nhất nhận thức của Trung ương Đảng với lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến.
Đến tháng 10/1936, một luận điểm mới được nêu ra trong văn kiện “Chung quanh vấn đề chiến sách mới”, về tính cấp thiết của cách mạng giải phóng dân tộc đòi hỏi cách mạng ruộng đất không thể gây ảnh hưởng ngăn trở đến sự tiến triển của nó.
Văn kiện nêu rõ: “Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc cách mạng điền địa. Nghĩa là không thể nói rằng: muốn đánh đổ đế quốc cần phải phát triển cách mạng điền địa, muốn giải quyết cách mạng điền địa cần phải đánh đổ đế quốc. Lý thuyết ấy có chỗ không xác đáng…nếu phát triển cuộc tranh đấu chia đất mà ngăn trở cuộc tranh đấu phản đế thì phải lựa chọn vấn đề nào quan trọng hơn mà giải quyết trước. Nghĩa là chọn địch nhân chính, nguy hiểm nhất, để tập trung lực lượng của một dân tộc mà đánh cho được toàn thắng”.
Những ý tưởng đó, trùng hợp, thống nhất với những luận điểm của Nguyễn Ái Quốc về xác lập vị trí quan trọng hàng đầu của cách mạng giải phóng dân tộc và tìm ra một giải pháp hữu hiệu nhất để xử lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt Nam.
Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Những chuyển biến to lớn của tình hình thế giới và trong nước đặt ra cho Đảng những nhiệm vụ mới và đòi hỏi Đảng phải đưa ra những quyết sách mới, những phương thức hoạt động mới. Do đó, ngày 29/9/1939, Trung ương Đảng gửi thông cáo nêu rõ: “Tình hình đã thay đổi nhiều. Hoàn cảnh Đông Dương sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”.
Tiếp đó, hai tháng sau ngày chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 11/1939), nhận định: “Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập (…) Sự bóc lột tàn ác của đế quốc Pháp ở Đông Dương để cung cấp cho chiến tranh sẽ làm cho dân Đông Dương ngày càng cách mệnh hóa. Cuộc cách mệnh đánh đổ đế quốc Pháp của các dân tộc Đông Dương nhất định sẽ nổ bùng”.
Từ nhận định đó, hội nghị cho rằng chủ trương, chính sách của Đảng trong thời kỳ vận động Mặt trận dân chủ không còn thích hợp nữa. Do đó “Chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới. Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết được cách mệnh điền địa thì không thể giải quyết được cách mệnh phản đế. Trái lại, không giải quyết được cách mệnh phản đế thì không giải quyết được cách mệnh điền địa – cái nguyên tắc chính ấy không bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn kéo thế nào để thực hiện được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc”.
Tháng 5/1941, từ những phân tích về tình hình, sự thay đổi thái độ của các giai cấp, tầng lớp và nguyện vọng của toàn thể Nhân dân, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng do Nguyễn Ái Quốc chủ trì quyết định “Cần phải thay đổi chiến lược”, phải xem nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một “nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta và của cách mạng Đông Dương”. Hội nghị khẳng định: “Cuộc cách mạng Đông Dương hiện tại không phải là cuộc cách mạng tư sản dân quyền, cuộc cách mạng không phải giải quyết hai vấn đề phản đế và điền địa nữa, mà là cuộc cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”,vậy thì cuộc cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”.
Hội nghị nhấn mạnh: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng (5/1941) đã bổ sung và hoàn chỉnh “Chính sách mới của Đảng” được nêu ra từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11/1939), khẳng định dứt khoát chủ trương thay đổi chiến lược, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Sự thay đổi căn bản nhận thức về nhiệm vụ hiện thời của cách mạng Đông Dương chính là nguồn gốc, là nền tảng để Đảng đặt ra những quyết sách lớn nhằm đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng quần chúng cách mạng ở cả nông thôn và thành thị, xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực lượng vũ trang, tích cực chuẩn bị lực lượng đón thời cơ khởi nghĩa.
Những quyết sách đó dẫn đường cho toàn thể dân tộc tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Như vậy, từ Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11/1939 đến tháng 5/1941, Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc – khâu trọng yếu, mấu chốt của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, bao gồm một hệ thống các quan điểm, chủ trương và biện pháp, năng động, sáng tạo. Từ chủ trương thực hiện hai nhiệm vụ phản đế và phản phong đến đặt lên hàng đầu, trên hết và trước hết, một nhiệm vụ cấp bách, sống còn, đó là giải phóng dân tộc.
Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, Tổng khởi nghĩa tháng Tám thành công, thành lập nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa
Trước những chuyển biến mau lẹ của tình hình thế giới và trong nước, tháng 7/1936, Hội nghị đại biểu Trung ương Đảng và Ban Chỉ huy ở ngoài chỉ rõ trong lúc cần phải làm thức dậy và đề cao tinh thần dân tộc chính đáng, trong lúc nhiệm vụ trung tâm là thống nhất tất cả các lực lượng dân tộc để tranh lấy độc lập, giải phóng, người cộng sản có thể và cần tổ chức ra “liên đoàn giải phóng dân tộc Việt Nam phản đế hội”, “Việt Nam thống nhất dân tộc hội” để làm nền tảng cho việc thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
Tháng 11/1939, Hội nghị Trung ương Đảng chủ trương phải thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương để “tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, chống xâm lược phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn tay sai của đế quốc, đòi hoà bình cơm áo, thực hiện nền độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương”. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thực hiện là “một kiểu của cách mạng tư sản dân quyền”. Lực lượng của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đoàn kết trong Mặt trận bao gồm tất cả các giai cấp, các đảng phái, các phần tử phản đế muốn giải phóng dân tộc, thực hiện Đông Dương hoàn toàn độc lập với quyền dân tộc tự quyết, trong đó công nông là lực lượng chính, đặt dưới quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân.
Tháng 5/1941, Hội nghị Trung ương Đảng dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh chủ trương tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại công điền cho công bằng, giảm địa tô, giảm tức, thủ tiêu thuế điền. Do đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi với những tên dễ hiểu, có ý nghĩa cho từng dân tộc. Ở Việt Nam, theo đề nghị của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh).
Việt Nam độc lập đồng minh lấy ngọn cờ đỏ ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh làm biểu tượng. Các đoàn thể quần chúng yêu nước chống đế quốc đều thống nhất lấy tên là “hội cứu quốc”.
Ngày 12/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp quyết định phát động Tổng khởi nghĩa trong cả nước. Hội nghị toàn quốc của Đảng (họp từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945), quyết định Tổng khởi nghĩa.
Tiếp đó, Quốc dân Đại hội Tân trào (họp ngày 16/8/1945), nhất trí tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa và bầu ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam (tức Chính phủ lâm thời) do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch; quyết định Quốc kỳ nền đỏ, sao vàng; chọn bài Tiến Quân ca làm Quốc ca.
Sáng ngày 19/8/1945, hưởng ứng lời kêu gọi của Việt Minh, cả Hà Nội vùng dậy dưới rừng cờ đỏ sao vàng. Từ Hà Nội, làn sóng cách mạng bùng lan khắp nơi, cả nước vùng dậy đấu tranh giành chính quyền thắng lợi. Cách mạng tháng Tám thành công là thắng lợi của đường lối cứu nước, sự lãnh đạo đúng đắn, chủ động, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thành quả vĩ đại nhất của cách mạng tháng Tám năm 1945 là sự ra đời của Nhà nước mới. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập tuyên bố về sự ra đời của một nhà nước mới – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Năm tháng trôi qua, dù trải qua nhiều biến động lịch sử, song những giá trị và tầm vóc lịch sử của Cách mạng tháng Tám ngày càng được khẳng định và có ý nghĩa sâu sắc đối với công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Cách mạng tháng Tám thành công, khẳng định lý luận và phương pháp cách mạng giải phóng dân tộc mang đậm những giá trị độc lập tự chủ và sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là di sản vô cùng quý giá, cho Đảng và nhân dân ta tiếp tục thực hiện những chiến lược mới, mục tiêu mới trên con đường cách mạng đã lựa chọn.
Nguồn: https://baolangson.vn/cach-mang-thang-tam-thanh-cong-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong-hoa-ra-doi-su-lanh-dao-sang-suot-cua-dang-va-chu-tich-ho-chi-minh-5018768.html