“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, tư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc của Nguyễn Trãi cũng chính là tư tưởng xuyên suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Khác với xưa “quân điếu phạt trước lo trừ bạo” thì nay, trong điều kiện đất nước thái bình, để yên dân phải chăm lo xây dựng, phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần gắn với việc củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN.
Nhân nghĩa trong quan điểm của Nguyễn Trãi trước hết gắn chặt với tư tưởng vì dân và yên dân: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”. Nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc trừ bạo cứu nước, cứu dân. Để yên dân phải bảo đảm cho dân có được một cuộc sống ấm no, yên bình. Muốn đánh giặc cứu nước phải biết phát huy sức mạnh toàn dân mà kháng chiến, còn khi thái bình thì phải chăm lo sức dân, để dân yên ổn, dân tin. Đó là tư tưởng có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trần Quang Khải (1241-1294), con trai thứ ba của Vua Trần Thánh Tông không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc. Mùng 6 tháng 6 năm Ất Dậu 1285, sau khi đánh bại đạo quân của Thoát Hoan khỏi kinh thành Thăng Long, danh tướng Trần Quang Khải phò Vua Trần về lại kinh đô. Thời khắc đó được lưu truyền trong bài thơ “Tụng giá hoàn kinh sư”:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức.
Non nước ấy ngàn thu.
(Trần Trọng Kim dịch)
Thời khắc lịch sử ấy tới nay đã ngót 8 thế kỷ, đất nước qua bao phen chiến tranh, giang sơn, bờ cõi bao lần lung lạc. Nền thái bình của dân tộc vốn trải qua bao mất mát, hy sinh suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, gắn với những cuộc chiến bảo vệ độc lập, chủ quyền, điều ấy càng hun đúc khát vọng hòa bình, độc lập mà ráng sức gìn giữ. Nhưng, một quy luật tất yếu, muốn thái bình phải “tu trí lực”, ấy là gắng sức dựng xây cả về nền tảng kinh tế, vật chất cũng như củng cố sức mạnh đoàn kết toàn dân gắn với sức mạnh quốc phòng, an ninh. Thời Lý được coi là một thời đại cực thịnh của Đại Việt. Ngay sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn đã hạ chiếu tha bổng sưu thuế trong nhiều năm. Trong gần 18 năm cầm quyền, nhà vua đã 3 lần tha, giảm sưu thuế cho nhân dân. Ông cũng là người quyết định dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Trong “Chiếu dời đô” viết: “Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh…”. Điều đó cho thấy tấm lòng của những ông vua hiền sáng bao giờ cũng hướng đến nhân dân, dựa vào nhân dân để giữ nước.
Đến triều Trần, một vương triều có võ công hiển hách của dân tộc Việt: “Đến nay nước sông tuy chảy hoài/ Mà nhục quân thù khôn rửa nổi” (trích “Bạch Đằng Giang phú” – Trương Hán Siêu). Để có được những võ công ấy thì việc dưỡng nhuệ sức dân luôn là kế sách hàng đầu. Người thể hiện rõ tư tưởng này chính là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trước lúc lâm chung, trả lời câu hỏi của Vua Trần Anh Tông rằng: “Nếu có điều chẳng may mà giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì kế sách như thế nào?”, Hưng Đạo Đại Vương đã trả lời: “Ngày xưa Triệu Vũ Đế dựng nước, vua nhà Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã, đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, Hồ Nam, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời nhà Đinh, nhà Tiền Lê dùng người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi, suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua nhà Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế. Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản binh chế trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”.
Lời dạy của Hưng Đạo Đại Vương là bài học xuyên suốt lịch sử dân tộc – nền độc lập quốc gia, sự vững mạnh của mọi triều đại đều phụ thuộc vào lòng dân. Dân đồng lòng, ủng hộ thì dù quân giặc đông và hung bạo đến đâu cũng sẽ phải chịu thất bại. Còn khi lòng dân lung lạc, quay lưng với triều đình thì dù có thành cao hào sâu, có quân đông thì vận nước cũng khó bề giữ vững (bài học Hồ Quý Ly để mất nước vào tay giặc Minh là minh chứng).
Bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở ra thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – thời đại đất nước độc lập, đi lên CNXH, nhân dân làm chủ đất nước, đồng thời, khẳng định cơ sở chính trị – thực tiễn và cơ sở pháp lý của nền độc lập. Tuyên ngôn là sự kết tinh khát vọng độc lập mấy nghìn năm của dân tộc và khẳng định rõ ý chí, quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập. Độc lập của Tổ quốc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân. Người khẳng định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Người từng ví công việc cách mạng như “hòn đá to, hòn đá nặng, một người nhắc, nhắc không đặng”. Ngược lại cũng hòn đá ấy nếu có nhiều người cùng nhắc thì sẽ được. Suy rộng ra, việc cứu nước, xây dựng quốc gia nếu nhiều người cùng nhau đồng lòng thì nhất định sẽ thành công. Người khẳng định, Đảng phải lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh của quần chúng nhân dân.
Thực hiện lời thề độc lập, nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã anh dũng chiến đấu suốt 30 năm chống sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, giành độc lập, thống nhất non sông, vững bước xây dựng, phát triển đất nước từ quá độ lên CNXH. Gần 40 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự phát triển của đất nước ta. Bằng những cải biến sâu sắc và toàn diện, quá trình đổi mới đã đem lại những thành tựu phát triển to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, gia nhập nhóm nước có mức thu nhập trung bình thấp. Trong liên tục nhiều năm, nền kinh tế đạt mức tăng trưởng khá, góp phần đẩy lùi đói nghèo, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân.
Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI ban hành “Nghị quyết về việc thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới (2013-2023), bên cạnh xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển là chủ đạo, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, khó dự báo, đất nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá; tranh chấp biển, đảo vẫn tiềm ẩn các nguy cơ gây mất ổn định; các thách thức an ninh phi truyền thống có xu hướng gia tăng, nhất là về thiên tai, thảm họa môi trường, dịch bệnh. Trong bối cảnh đó, toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết, đồng lòng, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân được tăng cường, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang, sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc của đất nước được nâng lên. Tuy nhiên, so với yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới cũng còn những hạn chế như về kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; về xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố; về sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang trong điều kiện chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao và sức mạnh quân sự Nhà nước, sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc…
Dựng nước và giữ nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc luôn là quy luật có ý nghĩa sống còn trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc ta. Là một quốc gia chịu nhiều đau thương, mất mát của các cuộc chiến tranh xâm lược, chúng ta khao khát, chúng ta mong muốn hòa bình, độc lập nhưng thực tiễn lịch sử trường tồn, phát triển của dân tộc cũng chỉ rõ rằng, nền hòa bình, độc lập ấy chỉ có được khi chúng ta biết dựng xây sức mạnh có ý nghĩa cốt lõi từ quần chúng nhân dân, gắn với việc củng cố sức mạnh quốc phòng, an ninh.
Nguồn:https://antgct.cand.com.vn/Chuyen-de/cot-o-yen-dan-i704913/