Đó là những người gốc Việt lưu lạc đến đây hơn 500 năm và hiện định cư tại khu vực Tam Đảo (thuộc xã Giang Bình, thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc), cách cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam hơn 25 km.
“Người Kinh mình phải không?”
Khi chúng tôi vừa đặt chân đến đình An Nam nằm tại làng chài Vạn Vĩ, bà Tô Tiết đến nắm chặt lấy tay, hỏi rõ: “Người Kinh mình phải không?”. Dứt lời, bà vội quay sang kêu chồng con và cả những người hàng xóm chạy ra để trò chuyện.
Tất cả xôn xao như vừa nhận được một tin vui. Thậm chí từ cuối xóm, hai bà lão ngoài 80 tuổi cũng chống gậy lần từng bước chân tới sân đình gặp chúng tôi. “Người Việt Nam sang đây chơi hả?”, “Người Kinh đi thăm người Kinh đây nè”… là những câu mà hai cụ hỏi liên tục.
Chúng tôi kể cho họ nghe nơi chúng tôi sinh sống là TP HCM, cách biên giới Trung Quốc hơn 3 ngày đi ôtô. Nhưng tất cả đều không biết, họ chỉ nghe kể rằng từ hàng trăm năm trước, ông bà của họ có nguồn gốc từ Đồ Sơn (TP Hải Phòng) ra biển đánh bắt cá rồi theo con nước đến mảnh đất này và nay đã có hơn 20.000 người gốc Việt sinh cơ lập nghiệp ở đây.
Người dân tộc Kinh hát quan họ Bắc Ninh, nói tiếng Việt tại Trung Quốc
“Chúng tôi không biết gì nhiều ở Việt Nam đâu. Nhưng người Việt mà qua đây thì phải ở lại đãi cơm. Để còn nói tiếng Việt cho chúng tôi nghe. Phải nói nhiều để chúng tôi không quên tiếng Việt” – bà Tiết nhiệt tình mời.
Không thể từ chối, chúng tôi gật đầu nhận lời ở lại dùng cơm với người dân trong làng. Trong lúc chờ mọi người chuẩn bị, chúng tôi mượn xe máy điện đi tham quan làng người Kinh. Càng đi sâu càng bất ngờ khi mọi thứ không khác gì làng quê ở vùng nông thôn Bắc Bộ.
Từ đầu làng đã tọa lạc một ngôi đình, kế bên là giếng nước và lũy tre thân thuộc. Cứ cách hơn 15 hộ lại xuất hiện một khu vườn trồng lúa, khoai và hoa màu. Những phụ nữ đội nón lá, cuốc đất và nói chuyện với nhau bằng tiếng nguồn cội bao đời.
Dừng trước một cửa hàng tạp hóa, chúng tôi nhận ra những bảng hiệu bán các món hàng Việt như thuốc lá, cà phê, kể cả tương ớt. Bà Đỗ Tú, chủ cửa hàng, bước ra khoe hẳn một chai nước mắm mới nhập từ bên kia biên giới: “Dân làng nơi đây sản xuất nước mắm và dùng nước mắm nêm vào tất cả món ăn. Nhập thêm hàng Việt Nam vì phòng ngừa mùa biển động không có cá để làm nước mắm”.
Theo lời bà Tú, dù trải qua hàng trăm năm nhưng mọi sinh hoạt ở đây đều giữ nguyên gốc. Hơn 15 năm trước, khi điện thoại thông minh chưa phát triển, người dân nhập băng cassette thu những bài hát ru, hát quan họ để bán. “Thế hệ tôi và cả những đời trước đều được cha mẹ hát ru bằng dân ca. Rất nhiều người chơi được cả nhạc cụ Việt Nam” – bà Tú kể.
Không quên tiếng Việt
Quả thật, khi chúng tôi quay trở lại sân đình ăn cơm trưa thì dân làng đã kéo sẵn bộ đàn bầu ra chuẩn bị biểu diễn. Không một chút ái ngại, bà Tiết đứng giữa sân đình cất giọng hát mộc mạc: “Yêu nhau cởi áo ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ… rằng a ối a qua cầu, tình tình tình gió bay…”.
Vừa dứt bài, bà liền chuyển sang đánh đàn bầu bài dân ca quan họ Bắc Ninh “Trèo lên trái núi Thiên Thai”.
Bà Tô Tiết, thế hệ thứ 10 của người dân tộc Kinh tại Trung Quốc, chơi đàn bầu
Để tìm hiểu kỹ và chính xác về nguồn gốc của người gốc Việt ở Trung Quốc, chúng tôi tìm đến Bảo tàng Dân tộc Kinh do tỉnh Quảng Tây quản lý.
Trước cổng bảo tàng là bức tượng hai vợ chồng đang đánh bắt cá trên biển nhằm mô phỏng lại những ngày đầu người Việt tới đây định cư; bên trong tái hiện những hình ảnh rước kiệu, không gian bếp, những món đặc sản của người Việt… Để có thể đọc và tìm hiểu hết thông tin trong bảo tàng mất gần 1 giờ. Bảo tàng mở cửa tất cả các ngày trong tuần và không thu phí.
Ông Lý Hiển, người trông coi bảo tàng, kể rằng trước kia, những người dân mà chúng tôi gặp được gọi là người An Nam, người Việt nhưng giờ đây được chính thức gọi là người Kinh. Đây là một trong những dân tộc thiểu số ít người nhất ở Trung Quốc.
Theo lời kể, xưa kia có 12 dòng họ tổ gốc Việt di cư theo luồng cá và chia nhau ở trên 3 hòn đảo lần lượt có tên là Vạn Vĩ, Sơn Tâm và Vu Đầu. Dần dần, 3 hòn đảo bị bồi lấp thành bán đảo Tam Đảo như hiện nay.
Ông Hiển cho biết chính quyền sở tại vừa cho phép các trường học ở khu vực có dân tộc Kinh sinh sống đưa tiếng Việt vào chương trình giảng dạy. Đây là môn không bắt buộc nhưng gần như cháu nào cũng đều đăng ký học thêm. “Vốn sẵn giao tiếp với cha mẹ ở nhà bằng tiếng Việt nên khi cô giáo dạy, những đứa trẻ tiếp thu rất nhanh” – ông Hiển nói.
Người trẻ ở Tam Đảo cũng gìn giữ tiếng Việt
Không những cố gắng giữ gìn tiếng nói mà dân ở đây hằng năm mời những bậc cao niên từ Trà Cổ (TP Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh) sang Tam Đảo để hướng dẫn tổ chức các lễ hội và cúng đình. Mỗi năm có 4 đợt lễ lớn và đó là dịp mọi người đến để chung vui, cầu may mắn.
Theo thống kê, tại Tam Đảo có hơn 120 người thuộc dân tộc Kinh chơi được nhạc cụ truyền thống Việt Nam và có hơn 400 cuốn sách ghi chép lại kho tàng văn học dân gian, bao gồm nhiều ca dao, tục ngữ, truyện cổ tích…
Khi tạm biệt Tam Đảo, chúng tôi để ý thấy trước làng có một cây đa chắc đã vài trăm năm tuổi. Dân ở đây đặt tên là cây Nam Quốc, như lời nhắc nhở thế hệ sau không quên nguồn cội dân tộc.
Đường đi không khó!
Chúng tôi là một trong những nhóm du khách đầu tiên đặt chân đến Trung Quốc bằng đường bộ sau 3 năm quốc gia này kiểm soát chặt các cửa khẩu vì dịch COVID-19. Để có thể tham quan nơi sinh sống của dân tộc Kinh, chỉ cần đăng ký cấp sổ thông hành qua cửa khẩu Móng Cái (tỉnh Quảng Ninh) trên Cổng dịch vụ công quốc gia với giá 50.000 đồng.
Sau khi nhập cảnh sang cửa khẩu Đông Hưng (Trung Quốc), chúng tôi đón xe buýt đến biển Vạn Vĩ với chi phí 10 nhân dân tệ (khoảng 35.000 đồng). Tại bãi tắm có hàng chục gian hàng bán thức ăn, nước giải khát. Gần như tất cả là người dân tộc Kinh và nói được tiếng Việt, đặc biệt có người mặc áo dài, áo vải làng quê Bắc Bộ.