Không nên “bỏ ngỏ” thỏa thuận cổ đông

Báo Đầu tưBáo Đầu tư03/03/2025

Theo phân giao nhiệm vụ tại Nghị quyết 27/NQ-CP, Chính phủ giao cơ quan chức năng hoàn thiện hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Doanh nghiệp. Đây là thời điểm nhiều vấn đề cần được đặt ra để luật hóa, trong đó có thỏa thuận cổ đông.


Sửa đổi Luật Doanh nghiệp: Không nên “bỏ ngỏ” thỏa thuận cổ đông

Theo phân giao nhiệm vụ tại Nghị quyết 27/NQ-CP, Chính phủ giao cơ quan chức năng hoàn thiện hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Doanh nghiệp. Đây là thời điểm nhiều vấn đề cần được đặt ra để luật hóa, trong đó có thỏa thuận cổ đông.

Luật doanh nghiệp cần có quy định về thỏa thuận cổ đông như một văn bản pháp lý của doanh nghiệp
Luật Doanh nghiệp cần có quy định về thỏa thuận cổ đông như một văn bản pháp lý của doanh nghiệp.

Thỏa thuận cổ đông là gì?

Thực tế thành lập, quản lý và hoạt động của doanh nghiệp vẫn luôn tồn tại một bản thỏa thuận cổ đông, song hiệu lực áp dụng hiện chủ yếu dựa vào sự “quân tử” của các bên tham gia, hơn là sự bảo vệ dưới góc độ pháp lý.

Thỏa thuận cổ đông được ký kết giữa các nhà sáng lập doanh nghiệp (gồm cả tổ chức, cá nhân)  khi thành lập doanh nghiệp hoặc giữa các thành viên/cổ đông (cổ đông) trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Dưới góc độ quản trị doanh nghiệp, thỏa thuận cổ đông là cơ sở để nhóm nhà sáng lập cũng như cổ đông khác vận hành hoạt động doanh nghiệp theo định hướng cốt lõi ban đầu mà họ đặt ra, thông qua các quyền ưu tiên trong quản lý, điều hành (quyền có đại diện của mình trong Hội đồng Quản trị, Ban giám đốc điều hành; quyền biểu quyết với số phiếu biểu quyết cao hơn hoặc quyền phủ quyết, quyền quyết định đối với các vấn đề quan trọng…).

Thỏa thuận cổ đông là cơ sở để bảo vệ quyền lợi của nhà sáng lập, các cổ đông khác tham gia thỏa thuận, cổ đông thiểu số, cũng là cơ sở cho cam kết của cổ đông góp vốn khi vào sân chơi chung, trên tinh thần tôn trọng định hướng của các nhà sáng lập và sự phát triển ổn định của doanh nghiệp.

Đây cũng là văn bản phân định rõ ràng và đảm bảo lợi ích của cổ đông (bao gồm cổ đông sáng lập, cổ đông góp vốn), lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của bên thứ ba, tạo một sân chơi bình đẳng, minh bạch trên cơ sở tính toán đến các lợi thế thương mại và thị trường.

Trên thế giới, văn bản như vậy được biết đến và tồn tại phổ biến với tên gọi thỏa thuận cổ đông hoặc hợp đồng góp vốn. Tại Việt Nam, thực tiễn thành lập và hoạt động doanh nghiệp ghi nhận văn bản thỏa thuận như vậy với nhiều tên gọi khác nhau, như thỏa thuận cổ đông/thỏa thuận thành viên, hợp đồng/thỏa thuận góp vốn, hợp đồng liên doanh, thỏa thuận/hợp đồng thành lập doanh nghiệp, thỏa thuận/hợp đồng tiền thành lập doanh nghiệp…

Tuy nhiên, pháp luật doanh nghiệp và đầu tư hiện hành không có quy định ghi nhận về thỏa thuận cổ đông.

Lịch sử phát triển của hệ thống Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư của Việt Nam ghi nhận một loại hợp đồng tương tự thỏa thuận cổ đông với tên gọi Hợp đồng liên doanh trong Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Một thời gian dài, văn bản này là cơ sở pháp lý quan trọng đối với quá trình thành lập, quản lý, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp liên doanh, tồn tại song song với pháp luật doanh nghiệp, đầu tư và điều lệ.

Nhưng khái niệm này đã bị bãi bỏ từng phần, bắt đầu từ Luật Đầu tư năm 2005. Hiện tại, ngoài Điều lệ, pháp luật doanh nghiệp và đầu tư hiện hành không ghi nhận bất kỳ văn bản/thỏa thuận nào giữa các nhà sáng lập và/hoặc giữa các cổ đông trong quá trình thành lập, hoạt động của doanh nghiệp.

Hiệu lực của thỏa thuận cổ đông

Tại Việt Nam, như trên đã đề cập, pháp luật doanh nghiệp và đầu tư hiện hành không công nhận thỏa thuận cổ đông như là một tài liệu/văn kiện pháp lý gắn với sự hình thành, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp. Do vậy, khi một thỏa thuận cổ đông có hiệu lực theo quy định của Bộ luật Dân sự (không trái với các quy định của Luật Doanh nghiệp và luật khác) thì vẫn gặp nhiều rủi ro khi áp dụng.

Giả sử, một thỏa thuận cổ đông ghi nhận các điều kiện hạn chế chuyển nhượng đối với cổ phần/phần vốn góp và các quy định này được áp dụng để không cho phép một cổ đông/thành viên chuyển nhượng cổ phần/phần vốn góp của mình vì không phù hợp với các điều kiện hạn chế chuyển nhượng đã thống nhất tại thỏa thuận cổ đông. Cổ đông này vẫn có thể tiến hành khởi kiện và có cơ hội thắng kiện vì hiệu lực của thỏa thuận cổ đông không được ghi nhận trong quy định của pháp luật doanh nghiệp và đầu tư.

Đến thời điểm hiện tại, theo tìm hiểu của tác giả, chưa có bản án, quyết định nào của tòa án công nhận hiệu lực của thỏa thuận cổ đông.

Có thể thấy, ngoài Điều lệ, Luật Doanh nghiệp không ghi nhận bất kỳ một văn bản, thỏa thuận nào khác giữa các cổ đông, đồng nghĩa với việc, pháp luật doanh nghiệp chỉ ghi nhận hiệu lực của Điều lệ đối với sự thành lập và hoạt động của doanh nghiệp. Nghĩa là, thỏa thuận cổ đông không được xem là một văn bản có hiệu lực pháp lý tồn tại song song với Điều lệ.

Nhiều doanh nghiệp, sau khi ký thỏa thuận cổ đông đã cố gắng cụ thể hóa các quy định của thỏa thuận cổ đông trở thành các quy định khác trong Điều lệ mà Luật Doanh nghiệp cho phép quy định. Tuy nhiên, việc này cũng đối mặt với nhiều khó khăn khi phải giải trình các nội dung điều lệ với cơ quan cấp phép khi thành lập, khả năng thông qua điều lệ (đặc biệt trong trường hợp nội dung của thỏa thuận cổ đông chỉ áp dụng với nhà sáng lập hoặc nhóm cổ đông/thành viên nhất định) hoặc những lo ngại về tính bảo mật khi Điều lệ là văn bản được công khai... 

Cần sự ghi nhận tại Luật Doanh nghiệp

Tồn tại trên thực tế và là một tài liệu quan trọng, gắn với việc thành lập, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp, nhưng các quy định của thỏa thuận cổ đông thường dễ dàng bị phá vỡ do không được pháp luật doanh nghiệp ghi nhận như một tài liệu pháp lý của doanh nghiệp bên cạnh Điều lệ, ngay cả khi các bên thỏa thuận ưu tiên áp dụng thỏa thuận cổ đông trước Điều lệ.

Hiện nay, số lượng các tranh chấp nội bộ trong doanh nghiệp tại Việt Nam ngày càng gia tăng, với nhiều loại tranh chấp khác nhau. Có thể kể tới tranh chấp giữa cổ đông với cổ đông, tranh chấp giữa cổ đông với doanh nghiệp, tranh chấp giữa cổ đông với những người quản lý doanh nghiệp, tranh chấp giữa doanh nghiệp với những người quản lý…

Các tranh chấp có diễn biến phức tạp và ảnh hưởng đến hoạt động bình thường, sự ổn định và phát triển của doanh nghiệp. Không ít tranh chấp đã kéo theo sự “đổ vỡ” đáng tiếc, ngay cả đối với những doanh nghiệp đang có ưu thế và uy tín trên trị trường. 

Những sự “đổ vỡ” này đặt ra vấn đề về vai trò của thỏa thuận cổ đông trong việc giải quyết tranh chấp, bế tắc với các chế tài vi phạm đã được thống nhất và cam kết tuân thủ từ trước của các bên tham gia - sẽ là văn kiện pháp lý, giúp giải quyết các tranh chấp, bế tắc một cách hiệu quả như vai trò của Hợp đồng liên doanh một thời - là chìa khóa để “hóa giải” các tranh chấp/mâu thuẫn giữa nhà đầu tư Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp liên doanh.

Sự tồn tại của thỏa thuận cổ đông trước tiên phải tuân thủ quy định của pháp luật doanh nghiệp, tuân thủ Điều lệ và trên nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của cổ đông khác (đặc biệt là cổ đông không tham gia thỏa thuận), bên thứ ba.

Tuy nhiên, thỏa thuận phải trên tinh thần sẽ có hiệu lực đối với các bên tham gia ký kết thỏa thuận. Do vậy, nếu một quy định của thỏa thuận cổ đông không được thực hiện xét theo các nguyên tắc của pháp luật doanh nghiệp đối với toàn bộ cổ đông hoặc nguyên tắc quản trị điều hành quản lý doanh nghiệp, thì chí ít vẫn có hiệu lực áp dụng đối với các cổ đông là chủ thể của thỏa thuận - những người đã tham gia ký và cam kết thực hiện thỏa thuận dưới góc độ là một thỏa thuận/hợp đồng dân sự.  Trong trường hợp này, các quy định về chế tài của thỏa thuận cổ đông được áp dụng đối với bên vi phạm.

Muốn vậy, thỏa thuận cổ đông cần phải có sự ghi nhận của Luật Doanh nghiệp như một văn bản pháp lý của doanh nghiệp bên cạnh Điều lệ.

Điều này phù hợp với thực tiễn thành lập, quản lý, điều hành doanh nghiệp, giúp thiết lập một sân chơi bình đẳng, minh bạch, trên cơ sở tính toán đến các lợi thế thương mại và thị trường; đồng thời cũng đáp ứng được mong mỏi của tất cả các nhà đầu tư vì mục đích bảo vệ sự ổn định và phát triển bền vững của doanh nghiệp.

(*) Luật sư thành viên Văn phòng luật sư NHQuang và Cộng sự



Nguồn: https://baodautu.vn/sua-doi-luat-doanh-nghiep-khong-nen-bo-ngo-thoa-thuan-co-dong-d249827.html

Bình luận (0)

No data
No data

Cùng chủ đề

Cùng chuyên mục

Phong cảnh Việt Nam đa sắc màu qua lăng kính của nhiếp ảnh gia Khánh Phan
Việt Nam kêu gọi giải quyết xung đột ở Ukraine bằng biện pháp hoà bình
Phát triển du lịch cộng đồng Hà Giang: Khi văn hóa nội sinh làm “đòn bẩy” kinh tế
Người cha Pháp đưa con gái về VN tìm mẹ: Kết quả ADN sau 1 ngày không tin được

Cùng tác giả

Di sản

Nhân vật

Doanh nghiệp

No videos available

Thời sự

Bộ - Ngành

Địa Phương

Sản phẩm