Với tư cách là những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất đối với nợ công của chính phủ Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản đang “hồi hộp” theo dõi diễn biến trong các cuộc đàm phán nâng trần nợ.
Trung Quốc và Nhật Bản ‘hồi hộp’ theo dõi đàm phán trần nợ công tại Mỹ. (Nguồn: NBC News) |
Ngày 27/5, truyền thông Mỹ đưa tin Tổng thống Joe Biden và các nhà lập pháp phe Cộng hòa đã đạt thỏa thuận sơ bộ về nâng trần nợ công. Theo các nguồn thạo tin, Nhà Trắng và các nhà đàm phán đã đạt một thỏa thuận trên nguyên tắc để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ.
Nếu được Quốc hội thông qua, thỏa thuận sẽ giúp nước Mỹ tránh được nguy cơ vỡ nợ, trước khi Bộ Tài chính hết ngân sách để trang trải các chi phí vào ngày 5/6 tới.
Vì sao Nhật Bản và Trung Quốc lo lắng?
Trung Quốc và Nhật Bản sở hữu 2.000 tỷ USD – hơn 1/4 trong tổng số 7.600 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ do nước ngoài nắm giữ. Bắc Kinh bắt đầu tăng cường mua trái phiếu Mỹ vào năm 2000, khi Mỹ ủng hộ hiệu quả việc Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), giúp xuất khẩu của nước này bùng nổ mạnh mẽ. Điều đó đã tạo ra một lượng lớn USD cho Trung Quốc và họ cần một nơi an toàn để cất giữ chúng.
Trái phiếu chính phủ Mỹ được nhiều người coi là một trong những khoản đầu tư an toàn nhất trên thế giới và giá trị trái phiếu Mỹ do Trung Quốc nắm giữ đã tăng vọt từ 101 tỷ USD lên mức cao nhất là 1.300 tỷ USD vào năm 2013.
Trung Quốc là chủ nợ nước ngoài lớn nhất của Mỹ trong hơn một thập niên qua. Tuy nhiên, căng thẳng leo thang với chính quyền cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump vào năm 2019 đã khiến Bắc Kinh giảm tỷ lệ nắm giữ trái phiếu Mỹ và Nhật Bản đã vượt qua Trung Quốc để trở thành chủ nợ hàng đầu của Mỹ trong năm đó.
Tokyo hiện nắm giữ 1.100 tỷ USD trái phiếu Mỹ, so với mức tương ứng 870 tỷ USD mà Trung Quốc nắm giữ và điều đó có nghĩa là cả hai nước đều dễ bị tổn thương trước sự sụp đổ tiềm tàng về giá trị của trái phiếu Chính phủ Mỹ nếu kịch bản nước Mỹ vỡ nợ xảy ra.
Josh Lipsky và Phillip Meng, các nhà phân tích từ Trung tâm Kinh tế của Atlantic Council, một tổ chức nghiên cứu, phân tích về các vấn đề quốc tế của khu vực Mỹ-Đại Tây Dương nhận định: “Việc Nhật Bản và Trung Quốc nắm giữ nhiều trái phiếu chính phủ Mỹ có thể gây tổn hại cho các nước này nếu giá trị của trái phiếu giảm mạnh.
Bởi giá trị trái phiếu giảm sẽ dẫn đến dự trữ ngoại hối của Nhật Bản và Trung Quốc giảm. Điều đó có nghĩa là họ sẽ có ít tiền hơn để thanh toán cho các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, thanh toán các khoản nợ nước ngoài hoặc hỗ trợ đồng tiền quốc gia”.
Tuy nhiên, ông Lipsky và ông Meng cho rằng, rủi ro thực sự đến từ suy thoái kinh tế toàn cầu và khả năng khủng hoảng của Mỹ có thể xảy ra do vỡ nợ.
Họ nói: “Đó là mối quan ngại nghiêm trọng đối với tất cả các quốc gia nhưng lại đặt ra rủi ro đặc biệt đối với sự phục hồi kinh tế mong manh của Trung Quốc”.
Sau thời gian bùng nổ ban đầu sau khi bất ngờ dỡ bỏ các hạn chế liên quan tới đại dịch Covid-19 vào cuối năm ngoái, nền kinh tế Trung Quốc hiện đang gặp khó khăn khi tiêu dùng, đầu tư và sản lượng công nghiệp đều có dấu hiệu chậm lại.
Áp lực giảm phát đã trở nên tồi tệ hơn khi giá tiêu dùng hầu như không thay đổi trong vài tháng qua. Một mối quan tâm lớn khác là tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên Trung Quốc tăng vọt, đạt mức kỷ lục 20,4% trong tháng 4/2023.
Trong khi đó, nền kinh tế Nhật Bản chỉ mới có dấu hiệu thoát khỏi tình trạng tăng trưởng kinh tế trì trệ và giảm phát, vốn đã ám ảnh nước này trong nhiều thập kỷ qua.
Mối đe dọa lớn
Ngay cả khi Chính phủ Mỹ cạn kiệt tiền và hết cả các biện pháp phi thường để thanh toán tất cả các hóa đơn – một kịch bản mà Bộ trưởng Tài chính Janet Yellen đã nói có thể xảy ra sớm nhất là vào ngày 1/6 tới – thì khả năng Mỹ vỡ nợ vẫn có thể thấp.
Một số nhà lập pháp Mỹ đã đề xuất ưu tiên thanh toán lãi trái phiếu cho những trái chủ lớn nhất.
Alex Capri, giảng viên cao cấp tại Trường Kinh doanh NUS cho hay, điều này sẽ được thực hiện khi lấy nguồn tài chính từ các quỹ khác, chẳng hạn như quỹ thanh toán lương hưu của chính phủ và quỹ trả lương cho nhân viên chính phủ, nhưng sẽ ngăn chặn được tình trạng vỡ nợ lớn đối với các nước như Nhật Bản và Trung Quốc.
Và nếu không có giải pháp thay thế rõ ràng, để đối phó với sự biến động gia tăng của thị trường, các nhà đầu tư có thể hoán đổi trái phiếu kỳ hạn ngắn hơn để lấy loại trái phiếu có kỳ hạn dài hơn. Điều đó có thể mang lại lợi ích cho Trung Quốc và Nhật Bản, bởi vì họ tập trung nắm giữ trái phiếu dài hạn của Mỹ.
Điều đó cho thấy, sự lây lan tình hình bất ổn tài chính và suy thoái kinh tế là một mối đe dọa lớn hơn nhiều.
Marcus Noland, Phó Chủ tịch kiêm Giám đốc nghiên cứu của Viện kinh tế quốc tế Peterson cho biết: “Một khoản nợ không trả được ở Mỹ có nghĩa là giá trái phiếu chính phủ giảm, lãi suất tăng, giá trị của đồng USD giảm và sự biến động gia tăng.
Nó cũng có thể đi kèm với sự sụt giảm của thị trường chứng khoán Mỹ, làm gia tăng căng thẳng đối với lĩnh vực ngân hàng Mỹ và gia tăng căng thẳng đối với lĩnh vực bất động sản. Điều đó cũng có thể khiến sự kết nối giữa nền kinh tế toàn cầu và thị trường tài chính bị đứt gãy”.
Trung Quốc và Nhật Bản đang phụ thuộc vào nền kinh tế lớn nhất thế giới để hỗ trợ các doanh nghiệp và việc làm tại quê nhà. Lĩnh vực xuất khẩu đang đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với Trung Quốc, khi các trụ cột khác của nền kinh tế – chẳng hạn như bất động sản – đã chững lại. Xuất khẩu tạo ra 1/5 Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc và cung cấp việc làm cho khoảng 180 triệu người.
Bất chấp căng thẳng địa chính trị gia tăng, Mỹ vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc. Nước này cũng là đối tác thương mại lớn thứ hai của Nhật Bản. Năm 2022, tổng kim ngạch thương mại Mỹ-Trung đạt mức cao kỷ lục 691 tỷ USD, trong khi kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản sang Mỹ tăng 10% cùng kỳ.
Ông Noland nhấn mạnh: “Khi nền kinh tế Mỹ tăng trưởng chậm lại, nó sẽ thể hiện qua hoạt động thương mại, chẳng hạn như làm giảm xuất khẩu của Trung Quốc sang Mỹ và góp phần làm suy thoái nền kinh tế toàn cầu”.
Ở thời điểm hiện tại, Tokyo hay Bắc Kinh không thể làm gì nhiều ngoài việc chờ đợi và hy vọng điều tốt nhất.
Giới phân tích cho biết, việc vội vàng bán trái phiếu chính phủ Mỹ sẽ là “tự chuốc lấy thất bại”, vì nó sẽ làm tăng đáng kể giá trị của đồng Yen hoặc đồng Nhân dân tệ so với đồng USD, khiến chi phí xuất khẩu của hai nước này tăng vọt.
Nhân dân tệ ‘gặt’ lợi ích?
Về lâu dài, một số nhà phân tích nêu quan điểm, khả năng Mỹ vỡ nợ có thể thúc đẩy Trung Quốc đẩy nhanh nỗ lực tạo ra một hệ thống tài chính toàn cầu ít phụ thuộc vào đồng USD hơn.
Chính phủ Trung Quốc đã đạt được một loạt thỏa thuận với Nga, Saudi Arabia, Brazil và Pháp để tăng cường sử dụng đồng Nhân dân tệ trong thương mại và đầu tư quốc tế.
Một nhà lập pháp Nga cho biết, các nước thuộc Khối các nền kinh tế mới nổi hàng đầu thế giới (BRICS) gồm Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Brazil và Nam Phi, đang xem xét việc tạo ra một loại tiền tệ chung cho thương mại xuyên biên giới.
Giới phân tích cho rằng, điều này chắc chắn sẽ đóng vai trò là chất xúc tác để Trung Quốc tiếp tục thúc đẩy quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ và để Bắc Kinh tăng gấp đôi nỗ lực đưa các đối tác thương mại của mình tham gia vào sáng kiến ”Tiền tệ BRICs” mới được công bố.
Tuy nhiên, Trung Quốc phải đối mặt với một số trở ngại nghiêm trọng, chẳng hạn như các biện pháp kiểm soát mà nước này áp dụng đối với lượng tiền có thể chảy vào và ra khỏi nền kinh tế.
Theo các nhà phân tích, Bắc Kinh đang tỏ ra ít sẵn sàng hội nhập hoàn toàn với thị trường tài chính toàn cầu.
Ông Derek Scissors, thành viên cấp cao tại Viện Doanh nghiệp Mỹ khẳng định: “Việc thúc đẩy phi USD hóa một cách nghiêm túc sẽ khiến giao dịch bằng đồng Nhân dân tệ biến động hơn nhiều”.
Dữ liệu gần đây từ hệ thống thanh toán quốc tế SWIFT cho thấy, tỷ lệ tài trợ thương mại toàn cầu của đồng Nhân dân tệ là 4,5% trong tháng 3/2023, trong khi đồng USD chiếm 83,7%.
Ông Josh Lipsky và Phillip Meng nhấn mạnh: “Vẫn còn một chặng đường dài phía trước trước khi một giải pháp thay thế đáng tin cậy cho đồng USD có thể xuất hiện”.