Phân tích ngôn ngữ xã hội về cách lựa chọn từ ngữ, tần suất ngôn từ và độ dài câu cho thấy sự khác biệt giữa ứng cử viên của đảng Cộng hòa và ứng cử viên đảng Dân chủ.
Phó Tổng thống Mỹ Kamala Harris (phải) và cựu Tổng thống Donald Trump trong cuộc tranh luận trực tiếp đầu tiên tại Philadelphia, bang Pennsylvania, ngày 10/9/2024. Ảnh: THX/TTXVN
Trong các chiến dịch tranh cử của mình, cựu Tổng thống Donald Trump và Phó Tổng thống Kamala Harris thể hiện những cảm xúc và tâm trạng khác nhau. Sự tương phản giữa họ đặc biệt rõ nét trong cuộc tranh luận trực tiếp trên truyền hình vào ngày 10/9/2024.
Một ứng cử viên đã kêu gọi quá khứ, sử dụng nhiều từ ngữ tiêu cực hơn và khơi dậy nỗi sợ hãi. Ứng cử viên kia nói nhiều hơn về tương lai, sử dụng nhiều từ ngữ tích cực hơn và kêu gọi cảm giác hy vọng của cử tri.
Là một nhà ngôn ngữ học, nhà văn và giáo sư chủ yếu giảng dạy về ngôn ngữ xã hội học, bà Patricia Friedrich – Phó hiệu trưởng trường Đại học bang Arizona, luôn bị cuốn hút bởi cách mọi người có xu hướng sử dụng ngôn ngữ theo các mô hình. Cuộc tranh luận gần đây giữa hai đại diện Cộng hòa và Dân chủ đã cho bà cơ hội để xem xét cách các ứng cử viên này sử dụng ngôn ngữ để giành lấy sự ủng hộ của cử tri.
Theo Giáo sư Friedrich, việc xem xét cách tiếp cận mà một ứng cử viên lựa chọn có thể tiết lộ những sự thật sâu sắc hơn về họ. Theo truyền thống, qua cách hùng biện và ngôn ngữ, các chính trị gia có thể kêu gọi lý trí, cảm xúc hoặc thẩm quyền – hoặc một số sự kết hợp của chúng – để thuyết phục khán giả của họ. Về mặt cảm xúc, cả nỗi sợ hãi và hy vọng đều có hiệu quả trong việc thúc đẩy cử tri. Không có cách nào đúng hay sai để thực hiện điều đó.
Các nhà ngôn ngữ học đã phát triển khái niệm về idiolect (kiểu ngôn từ), dấu ấn riêng giống như dấu vân tay, khác nhau đối với mỗi cá nhân và được tạo ra từ những trải nghiệm ngôn ngữ và xã hội độc đáo của chúng ta.
Mọi người thường chuẩn bị và tập dượt cho các sự kiện diễn thuyết trước công chúng. Nhưng khi họ thực sự đối mặt với khán giả, họ có xu hướng quay lại với những gì đã trở thành bản chất của họ – kiểu ngôn từ. Ví dụ, người nói không nghĩ về độ dài câu của họ. Họ đang nghĩ về những ý tưởng mà họ muốn diễn đạt. Họ có thể không nhận ra rằng có những khuôn mẫu trong bài phát biểu và cách truyền đạt của họ, hoặc họ lặp lại cùng một từ nhiều lần.
Tính tiêu cực trong ngôn từ
Giáo sư Friedrich đã dùng một công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) trả lời các câu hỏi về tần suất của các từ, độ dài của câu và loại từ trong cuộc tranh luận. Bà kiểm tra tất cả đầu ra của công cụ AI theo cách thủ công để có thể đảm bảo không có sự khác biệt nào.
Bà dự đoán rằng cách các ứng cử viên sử dụng ngôn ngữ trong cuộc tranh luận sẽ phản ánh cách tiếp cận khác nhau của họ đối với chiến dịch, đặc biệt là về định hướng quá khứ hoặc hiện tại, kêu gọi nỗi sợ hãi hoặc hy vọng, và các tuyên bố tiêu cực hoặc tích cực. Và thực tế họ đã làm được.
Đầu tiên, Giáo sư Friedrich đã chọn 6 phân đoạn của bản ghi cuộc tranh luận, mỗi phân đoạn có độ dài tương đương và mỗi phân đoạn có cả hai ứng cử viên trả lời cùng một câu hỏi hoặc ít nhất là một câu hỏi tương tự.
Bà Kamala Harris (phải) và ông Donald Trump (trái) trong cuộc tranh luận trực tiếp ngày 10/9/2024. Ảnh: IRNA/TTXVN
Sau đó, bà xem xét sự tiêu cực trong ngôn ngữ của họ, cho rằng những tuyên bố tiêu cực hơn sẽ phù hợp hơn với lời kêu gọi chính trị đánh vào nỗi sợ hãi, trong khi những tuyên bố tích cực hơn sẽ liên quan chặt chẽ hơn đến thức tỉnh niềm hy vọng.
Nếu một ứng cử viên kêu gọi nỗi sợ hãi, họ có thể sẽ tập trung vào những điều có thể hoặc đã sai. Ngược lại, nếu họ tập trung vào hy vọng, họ có khả năng tập trung vào những gì có thể diễn ra tốt đẹp trong tương lai.
Kết quả cho thấy, ông Trump luôn đưa ra nhiều tuyên bố tiêu cực hơn bà Harris. Điều đó đúng với từng phân đoạn trong cả 6 phân đoạn, với tỷ lệ khác biệt từ 33% đến 166%.
Ví dụ, trong phân đoạn dài 30 giây, ông Trump đã sử dụng các tuyên bố và từ ngữ tiêu cực như “hoàn toàn phá hủy” và “thảm họa” 12 lần. Trong phản hồi dài 30 giây của mình, bà Harris chỉ sử dụng các tuyên bố hoặc từ ngữ tiêu cực 7 lần.
Giọng điệu của các thuật ngữ cũng khác nhau: Các từ ngữ tiêu cực của ông Trump có xu hướng mạnh hơn, chẳng hạn như “bạo lực”, “rất khủng khiếp” và “vô lý”. Nhìn chung, đối với tất cả các phân đoạn đã phân tích, trung bình ông Trump đưa ra nhiều tuyên bố tiêu cực hơn đối thủ khoảng 61%.
Câu ngắn – câu dài
Sau đó, Giáo sư Patricia Friedrich xem xét độ dài của câu, với suy luận rằng câu ngắn hơn có thể có xu hướng truyền đạt cảm giác cấp bách, phù hợp hơn với nỗi sợ hãi, và những câu dài hơn có thể trôi chảy và bình tĩnh hơn, do đó liên quan nhiều hơn đến hy vọng.
Theo trực giác, mọi người có thể nghĩ rằng những tuyên bố ngắn phản ánh sự trực tiếp và giải quyết vấn đề một cách trực diện, nhưng không nhất thiết phải như vậy.
Ví dụ, một trong những tuyên bố tương đối ngắn của ông Trump, “Thỏa thuận nói rằng bạn phải làm điều này, điều này, điều này, điều này, điều này, và họ đã không làm điều đó”, có thể được coi là né tránh vì nó không chứa thông tin cụ thể cho phép người nghe tự đánh giá xem điều gì đó đã được thực hiện hay chưa. Tuy nhiên, nó đơn giản và ngắn gọn, chỉ dài do lặp lại từ “điều này”.
Đối với phân đoạn đầu tiên được phân tích, độ dài trung bình của các câu đối với ông Trump là 13 từ, trong khi đối với bà Harris là 17 từ. Khoảng cách mở rộng ở phần thứ hai, trong đó độ dài trung bình của các câu đối với cựu Tổng thống là 14 từ, trong khi đối với nữ Phó Tổng thống là 25 từ. “Mô hình” đó cũng giống như ở phần thứ ba.
Nói về quá khứ hay tương lai
Cuối cùng, Giáo sư Friedrich xem xét cách hai người nói về tương lai và quá khứ, và liệu họ có nói về cái này hay cái kia nhiều hơn không, như những chỉ báo có thể cho thấy sự tập trung nhiều hơn vào nỗi sợ hãi hay hy vọng.
Thông thường, trong bối cảnh sợ hãi, quá khứ gần sẽ được sử dụng như một thời điểm để trốn thoát, còn quá khứ xa hơn là thời điểm để quay trở lại. Ngược lại, những người tập trung vào hy vọng sẽ hướng đến tương lai.
Khi phân tích những phát biểu kết thúc của họ, bà Friedrich thấy rằng cả hai ứng cử viên đều đưa ra cùng một số lượng tham chiếu đến quá khứ, nhưng theo những cách rất khác nhau. Hầu hết các tham chiếu của Harris về quá khứ đều liên quan đến thực tế là ông Trump đã tập trung vào nó.
Trong khi đó, ông Trump nói nhiều hơn về những thất bại mà ông cho là của những người đối lập trong quá khứ. Ông cũng nói về những thành tựu trước đây của mình, chẳng hạn như, “Tôi đã xây dựng lại toàn bộ quân đội của chúng ta.”
Về các tuyên bố trong tương lai, cả 4 tuyên bố của ông Trump đều là cảnh báo những gì ông cho rằng sẽ xảy ra nếu đối thủ của ông giành chiến thắng – ví dụ, “Nếu bà ấy thắng cử, hoạt động khai thác khí đá phiến ở Pennsylvania sẽ kết thúc vào Ngày đầu tiên (của nhiệm kỳ Tổng thống)”.
Bà Harris đã có 9 tuyên bố hướng đến “tương lai”, tất cả đều nói về những gì bà dự định làm. Ví dụ, bà nói: “Và khi tôi trở thành tổng thống, chúng tôi sẽ làm điều đó cho tất cả mọi người, hiểu rằng giá trị mà tôi mang lại cho việc này là quyền được chăm sóc sức khỏe phải là quyền chứ không chỉ là đặc quyền của những người có khả năng chi trả.”
Cũng trong tuyên bố kết thúc của mình, Phó Tổng thống Harris đã tóm tắt cả cuộc tranh luận: “Tối nay, các bạn đã nghe hai tầm nhìn rất khác nhau cho đất nước chúng ta. Một tầm nhìn tập trung vào tương lai và một tầm nhìn tập trung vào quá khứ. Và một nỗ lực đưa chúng ta trở lại quá khứ. Nhưng chúng ta sẽ không quay lại.”
Kết quả bầu cử sẽ cho biết liệu cử tri Mỹ tại thời điểm này bị thu hút nhiều hơn bởi nỗi sợ hãi hay hy vọng. Và khoảng thời gian vài tuần tới chắc chắn sẽ cung cấp một lượng lớn dữ liệu cho các phân tích ngôn ngữ.