Đền Mây thuộc địa phận thôn Đằng Châu – phường Lam Sơn – Thị xã Hưng Yên – tỉnh Hưng Yên. Xưa kia, nơi đây là vùng vạn chài Xích Đằng với bến đò Mây, thuyền bè ra vào buôn bán tấp nập. Đền Mây thờ tướng quân Phạm Phòng Át tức Phạm Bạch Hổ, vị tướng tài ba của nước ta trong thời kỳ đầu của kỷ nguyên độc lập tự chủ (đầu thế kỷ thứ X đến đầu thế kỷ XI).
|
Cung cấm Đền Mây thờ 3 pho tượng: Phạm Bạch Hổ (bên phải), Phu nhân (bên trái) và Thánh mẫu (ở giữa) Ảnh: Đức Hùng |
Theo “Đại Nam nhất thống chí”, Phạm Bạch Hổ sinh ngày 10 tháng Giêng năm Canh Ngọ (910), thân phụ là Phạm Lệnh Công người lộ Nam Sách Giang (nay là Kim Thành- Hải Dương). Lệnh Công có tiệm buôn lớn ở Đằng Châu – Kim Động – Hưng Yên (nay là Xích Đằng – Lam Sơn – Hưng Yên). Tương truyền mẹ ông nằm mộng thấy Sơn Tinh và Hổ trắng mà có mang nên đã đặt tên ông là Bạch Hổ. Lớn lên Bạch Hổ có thân hình vạm vỡ, mạnh mẽ như hổ, thông minh hơn người, văn võ song toàn. Phạm Bạch Hổ từng làm hào trưởng đất Đằng Châu, là tướng tài của Dương Đình Nghệ. Năm Tân Mão 931, ông giúp chủ tướng đánh đuổi Lý Tiến, thứ sử Giao Châu; đánh bại Trần Báo do Đường Minh Tông cử sang cứu viện, rồi xưng tiết độ sứ. Khi Kiều Công Tiễn, một nha tướng của Dương Đình Nghệ giết chết chủ tướng, đoạt chức rồi cầu cứu quân Nam Hán xâm lược nước ta. Phạm Bạch Hổ đã phối hợp với Ngô Quyền đem quân tiêu diệt Kiều Công Tiễn và đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938). Khi Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi Vua, Phạm Bạch Hổ cùng Đỗ Cảnh Thạc lật đổ Dương Tam Kha đưa Ngô Xương Văn, con của Ngô Quyền lên ngôi, thời kỳ này được gọi là Hậu Ngô Vương. Năm 965, Hậu Ngô Vương mất, các hào kiệt trong nước nổi lên cát cứ từng vùng. Phạm Bạch Hổ chiếm giữ Đằng Châu và là một trong mười hai sứ quân thời đó. Năm 968 Vạn Thắng vương – Đinh Bộ Lĩnh được sứ quân Trần Lãm giao toàn bộ binh quyền, đã dẹp “Loạn 12 sứ quân”. Phạm Bạch Hổ đem quân quy thuận được phong là thân vệ Đại tướng quân. Ngày 16/11 năm Nhâm Thân (972), Phạm Bạch Hổ mất tại quê nhà, thọ 62 tuổi. Đinh Tiên Hoàng đã sắc cho nhân dân lập đền thờ, các triều đại đều phong tặng ông là: “Khai thiên hộ quốc tối linh thần”.
Tương truyền thần rất linh thiêng. Cuốn “Việt điện u linh” khi nói đến thần thổ địa ở Đằng Châu – Hưng Yên có chép: xưa Vua Lê Ngoạ Triều (tức Lê Long Đĩnh) khi chưa lên ngôi, có thực ấp ở Đằng Châu, thường bơi thuyền dạo chơi. Một hôm thuyền đang trên sông bỗng mây kéo đến tối sầm, gió thổi rất mạnh, mưa to sắp đổ xuống, Long Đĩnh tìm nơi trú ẩn, thấy trên bờ sông có đền, mới hỏi người làng: “Đền thờ thần gì”, người làng thưa: “đây là đền thờ thần thổ địa”, Vương hỏi “có thiêng không?” thưa rằng “đây là chỗ dựa của một châu, lễ cầu mưa, cầu tạnh đều rất ứng”. Vương bèn nói to lên rằng: “Nếu thần khiến được mưa gió thì nay thử khiến cho bên này sông tạnh, bên kia sông mưa. Thế mới thật là thiêng!”. Nói xong quả nhiên nửa sông bên kia mưa rất to, nửa sông bên này chỉ có gió mát. Long Đĩnh không bị ướt, lấy làm lạ mới sai tu bổ đền thờ.
|
Cung đại bái Đền Mây với hệ thống câu đối và bức Trâm thư của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh Ảnh: Đức Hùng |
Trải qua thời gian, Đền Mây đã được trùng tu, tu sửa nhiều lần. Ngày nay, kiến trúc ngôi đền vẫn mang đặc trưng nghệ thuật chạm khắc thời Hậu Lê và thời Nguyễn. Đền được xây dựng kiểu chữ Tam gồm: tiền tế, trung từ và hậu cung. Toà tiền tế với 3 gian được làm kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi. Kết cấu các bộ vì kiểu chồng rường giá chiêng con nhị, nâng đỡ mái là hệ thống các hàng cột, chân được kê lên tảng đá vuông. Các con rường được chạm hình hoa xoắn và kê lên đấu vuông thót đáy. Đầu dư chạm thành đầu rồng mềm mại, uyển chuyển. Các bức cốn chạm chủ đề tứ linh, tứ quý. Ngăn giữa hiên và tiền tế là hệ thống cửa bức bàn (thượng song hạ bản). Chính nhờ hệ thống cửa này đã tạo ra hai khoảng không gian tách biệt giữa trong và ngoài. Tiền tế được trang trí bằng hệ thống cửa võng, đại tự, hoành phi, câu đôí. Chính giữa toà tiền tế treo bức đại tự khảm trai có ghi hàng chữ “Thái Bình vương Phủ”. Các gian bên treo các bức hoành phi có ghi: “Phúc dẫn Đằng lưu” (Sông Đằng dẫn phúc); “Anh phi Châu quận” (Bậc anh tài ở quận Châu) và “Bán giang lĩnh tích” (Nửa dòng sông còn in dấu tích). Ngoài ra còn có bức trâm viết bằng chữ Hán do tiến sỹ Chu Mạnh Trinh (quan Án sát tỉnh Hưng Yên) đề năm Mậu Tuất (1888) ca ngợi cảnh đẹp của Đằng Châu và công lao của Phạm Bạch Hổ.
Nối với tiền tế là 5 gian trung từ được làm song song nhưng nền nhà cao hơn. Trung từ có kết cấu kiểu vì giá chiêng, với hệ thống cột gỗ lim vững chắc kê trên chân tảng đá lớn hình quả bồng để nâng đỡ mái. Các bộ vì gian bên trang trí hoạ tiết hoa văn đơn giản, riêng hai bộ vì gian giữa được chạm khắc cầu kỳ hơn. Đầu dư, đầu bẩy, con rường chạm hình đao lửa, hoa lá. Hai bên cột treo đôi câu đối ca ngợi công lao của tướng quân.
“Bá chủ hùng đồ thập nhị sơn hà dư cổ luỹ
Thần cao linh khí bán phân tinh vũ thử tiền giang“.
Tạm dịch:
“Anh hùng bá chủ một vùng, non nước phân chia 12 sứ quân
Linh thiêng hiển hiện của thần, khúc sông này nửa phân mưa nắng“.
Hậu cung gồm 3 gian, kết cấu vì chồng rường đơn giản, không chạm trổ hoa văn. Trong đền còn lưu giữ 27 pho tượng, hầu hết được tạo tác từ thời Lê, hai cỗ kiệu bát cống và một lư hương đồng rất quý.
|
Đền Mây đang được trùng tu theo Dự án bảo tồn, tôn tạo quần thể di tích Phố Hiến giai đoạn II, dự kiến hoàn thành vào năm 2007. Ảnh: Đức Hùng |
Hàng năm, lễ hội Đền Mây được tổ chức ở hai thời điểm khác nhau: Tháng Giêng từ ngày mồng 8 đến ngày 16 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày sinh; từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 11 (âm lịch) là lễ hội kỷ niệm ngày hoá của tướng quân Phạm Bạch Hổ. Trong lễ hội ngoài tế lễ trước đây còn diễn ra phần hội với nhiều trò chơi truyền thống mang đậm nét văn hoá của cư dân Bắc Bộ như: đấu vật, múa lân, hát trống quân, múa rối nước, đánh cờ… Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn, mục đích là tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, bài trừ những hủ tục lạc hậu xây dựng đời sống văn hoá mới. Năm 1992, Bộ VHTT đã công nhận Đền Mây là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Để hoà nhập với sự phát triển của Phố Hiến – Hưng Yên, Đền Mây đang được quy hoạch, trùng tu, tôn tạo để bảo đảm phục vụ khách thập phương và nhân dân trong vùng trong các ngày lễ hội.