Từ thuở hồng hoang, mảnh đất Đức Thông, tổng Đức Chiêm, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam xưa kia nay là thôn Bông Thượng, xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên là mảnh đất hội tụ linh khí của trời đất, vùng địa linh nhân kiệt, có thế đất nhìn ra phía Đông, hướng về biển lớn, được phù sa bồi đắp màu mỡ. Nhân dân cổ xưa đã chọn nơi đây là chốn định cư. Để tỏ lòng thành kính với thiên địa linh thiêng, nhân dân đã lập đền thờ linh thần thổ địa để che chở cho dân làng thoát khỏi tai ương. Ngôi đền tọa lạc tại thôn Bông Thượng nên được nhân dân lấy tên thôn đặt tên cho di tích là đền Bông Thượng.
Xuất phát từ thành phố Hưng Yên theo đường 39 đến Dốc Lã rẽ trái đi ngược lên phía Bắc theo dọc con đê sông Hồng khoảng 8km là tới ngôi đền. Theo cuốn “Từ điển xã Đức Chiêm” ghi bằng chữ Hán và lời kể của các cụ cao niên trong thôn thì đền Bông Thượng thờ hai vị thần là Đô Thiên phụ quốc thượng đẳng thần và Hùng Nghị vũ linh quả đoán Đại vương – người có công âm phù giúp vua nhà Trần đánh giặc cứu nước, đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân, bình yên cho đất nước.
Tương truyền rằng: Xưa kia, nhân dân trong xã vốn có một ngôi đền thờ rất thiêng. Đến đời vua Trần Minh Tông lên ngôi, bốn phương giặc cướp nổi lên. Nhà vua cử một vị Thượng tướng đem quân đi đánh dẹp phương Nam, hẹn 3 tháng sẽ trở về Kinh để báo tin chiến thắng. Vị tướng phụng mệnh tiến binh theo đường sông đến xã Đức Thông, vùng Khoái Đức thì trời tối, ngài bèn cho chiến thuyền đậu lại bên bãi sông để cho binh sĩ nghỉ ngơi. Đêm hôm ấy, vị tướng nằm mộng thấy có sứ thần ném thanh kiếm ở bờ sông và quỳ xuống tâu rằng: “Từ khi Thừa tướng đi chu du đến nay, dân chúng đều kêu oan”. Tỉnh mộng vị tướng ngồi suy ngẫm, đợi đến lúc trời sáng bèn sai quân lính đến miếu xem xét. Sau đó đích thân vị tướng đi lên miếu, thấy quang cảnh ở đây hoang tàn, ngôi miếu thì dột nát. Vị tướng cho gọi các bô lão trong làng đến ban cấp cho 20 quan tiền để sửa miếu. Thấy trong miếu có lá cờ đen, vị tướng cầm lên xem và khấn rằng: “Cờ thiêng này phú giúp chính nghĩa, dẹp giặc phương Nam để bảo vệ đất nước. Khi chiến thắng trở về sẽ tâu lên vua ban sắc phong Thượng đẳng thần”. Khấn xong, ngài hạ lệnh cho quân rung trống dậy đất, binh khí rợp trời, thuyền chiến tinh kỳ phấp phới, ngày đi ngàn dặm tiến về phương Nam chiến đấu thủy trận với giặc, lại nghe có câu đồng dao rằng: “Hắc ở bài binh, thiên vô sơ thảo” (có nghĩa là: cờ đen mà đánh bài binh thì mọi kẻ địch thất kinh chạy dài). Với sức mạnh âm dương chuyển hợp phong ba gió thổi, giặc dã tiêu tan, biên giới sạch bóng quân thù, cuộc sống thanh bình trở lại. Quân sĩ thu binh khí rồi ca khúc khải hoàn. Trên đường trở về Kinh đô, qua xã Đức Thông, tướng quân thân hành vào làm lễ bái tạ. Khi quân tướng về Kinh đô báo tin thắng trận, Thượng Hoàng hỏi: “Khanh có phép gì mà thắng giặc, quân ta không có vết máu giáo đâm mà giặc cướp dẹp yên?”. Vị tướng quỳ tâu lại sự việc. Thượng Hoàng khen rằng “bậc Đô Thiên phụ quốc”, xét công lao to lớn qua các triều đại đều có công âm phù giết giặc cứu nước lập công và được vua ban phong là: “Đô Thiên phụ quốc và Hùng Nghị vũ linh quả đoán Đại vương” để nhân dân thờ cúng mong thần giúp đỡ, che chở cho dân lành. Hàng năm nhà vua chu cấp cho nhân dân trong làng một con trâu và 20 quan tiền, đồng thời cử một vị thượng quan cứ đến đầu xuân trực tiếp về đền mở hội, tế thần theo hình thức quốc lễ.
Cũng như bao ngôi đền khác, đền Bông Thượng còn chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng khác. Trong những năm kháng chiến, đền là nơi chứa vũ khí chiến đấu, nuôi giấu cán bộ cách mạng. Tháng 7. 1945, được tin đoàn thuyền chở thóc do Nhật thu gom của dân chuyển bằng đường sông từ Khoái Châu về thị xã Hưng Yên, nhân dân và lực lượng vũ trang Đức Chiêm hạ quyết tâm đánh chặn, nổ súng ép Nhật phải đưa thuyền vào bờ để ta giành lại số thóc này chia cho bà con đang bị đói. Thời kỳ chống Mỹ, đền được sử dụng làm kho lưu trữ hàng hóa để phục vụ nhân dân và phục vụ công tác kháng chiến.
Xưa kia đền chỉ là một miếu nhỏ mái tranh tre, lứa lá, bên trong đặt ngai, bài vị. Trải qua các triều vua Trần, Lê, Nguyễn đền đều được trùng tu, sửa sang. Đền được xây theo kiểu chữ Đinh với 5 gian tiền tế và một gian hậu cung kiến trúc gỗ tương đối vững chắc. Trải qua thời gian biến đổi của tự nhiên và lịch sử cho nên đền đã xuống cấp. Năm 2008, ngay tại nền móng cũ chính quyền và nhân dân thôn Bông Thượng đã cho khôi phục lại đền theo nguyên mẫu cũ. Hiện nay đền còn lưu giữ nhiều cổ vật có giá trị.
Đền được sử dụng làm nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân trong thôn. Những ngày rằm, mồng một hàng tháng, bà con địa phương đến đền thắp hương, cầu khấn cho gia đình được mạnh khỏe, làm ăn thuận lợi. Vào dịp Tết Nguyên đán, đền là nơi nhân dân trong thôn tập trung đón giao thừa, tổ chức các trò chơi dân gian đón năm mới. Đây được coi là nơi sinh hoạt văn hóa và là nơi giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước cho các thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Hàng năm, cứ vào ngày rằm tháng Giêng, nhân dân địa phương đều tổ chức lễ hội và cứ 3 năm tổ chức hội lớn một lần. Đây là dịp để nhân dân trong làng nghỉ ngơi, hội tụ sau một năm buôn bán, làm ăn vất vả, đồng thời để nhân dân hiểu và có trách nhiệm giữ gìn di sản của ông cha để lại.
Nguyễn Thị Thảo
Hội VHNT tỉnh