Ông Phạm Ngọc Tuấn

Ông Phạm Ngọc Tuấn quê ở Hải Phòng, xung phong vào Nam chiến đấu và trở thành xạ thủ 12,7 ly đầu tiên của Đại đội 15 (12,7 ly) độc lập khi Trung đoàn 6 được thành lập. Các năm 1965-1967, đơn vị ông đã yểm trợ các tiểu đoàn tấn công căn cứ đối phương ở Tứ Hạ (Hương Trà); Mỹ Phú – Lương Ma, Phong Chương (Phong Điền); Nam Giảng, Quảng Thái (Quảng Điền).

Cuối năm 1967, ông được điều sang làm trinh sát tham gia chiến dịch Xuân 1968 ở Huế trở thành Tiểu đội trưởng của Tiểu đoàn 12 Đặc công tham gia tấn công căn cứ Mỹ ở Động Tòa – Hương Thủy. Trong một trận đánh, ông phát hiện cửa hầm ở khu vực nhà ăn của căn cứ nên đã lệnh cho chiến sĩ Cao Văn Cường gom thủ pháo đánh sập căn hầm và không ngờ đó là nơi ẩn nấp của chỉ huy sở.

Tại A Lưới, Phạm Ngọc Tuấn trở về đơn vị cũ và được đề bạt làm Đại đội trưởng 12,7 ly phối hợp với 2 đơn vị khác chốt giữ đồi A So, đẩy lùi các đợt tấn công của đối phương.

 Đất trời A Lưới hôm nay. Ảnh: Trương Vững

Năm 1970, Trung đoàn 6 phối hợp với các trung đoàn của Sư 324 lần lượt bao vây, tấn công cao điểm 935 và Cốc Bai. Nhờ lập được chiến công xuất sắc nên ông vinh dự được tổ chức kết nạp Đảng tại trận địa.

Bom đạn ác liệt đã đành, nhưng “ngán” nhất là đói kèm rét. Do vây ép Cốc Bai dài ngày, lại đúng vào mùa mưa việc vận chuyển lương thực gặp trở ngại; có những đợt không có gạo, binh sĩ phải tìm rau rừng. Đúng lúc ấy Chỉ huy trưởng lực lượng vũ trang miền Tây Trị – Thiên – Hồ Văn Pàng (tức Cu Pàng) xuất hiện. Thương bộ đội, ông Cu Pàng ký xuất gần cả chục gùi sắn; hay lúc không còn gì ăn thì nhận được món quà từ “trên trời rơi xuống”, đó là chiếc trực thăng tiếp tế cho Cốc Bai hạ thấp tìm bãi đáp cũng là lúc Đại đội 15 (C15) nhả đạn. Cú tăng tốc và chuyển hướng đột ngột của nó đã làm rơi con bò thui. C15 có thực phẩm dự trữ.

Trở lại A Lưới, đơn vị ông phối hợp đánh địch ở A Tây Luật – Bốt Đỏ. Giữa năm 1971, Phạm Ngọc Tuấn được điều về Phú Lộc, lần này ông được cử làm Đại đội trưởng bộ binh thuộc Tiểu đoàn 2 (do ông Lê Tắc làm Tiểu đoàn trưởng, ông Vũ Đức Hộ làm Chính trị viên). Đại đội 1 của ông được phân công bảo vệ hậu cứ xã Lương Lộc thời điểm này do bà Nguyễn Thị Giác, Huyện ủy viên làm Bí thư; ông  Ngô Thạnh làm Xã đội trưởng và bà Đặng Thị Thơm làm Trưởng ban An ninh.

Tại khu vực Đá Đen, C1 đã “xóa sổ” 1 trung đội địa phương quân khi đơn vị này hành quân vào hậu cứ Lương Lộc. Trong thời gian ở Phú Lộc, Phạm Ngọc Tuấn cùng 3 chiến sĩ còn xung phong về cầu Truồi trừ khử tên T.,  nguyên là lính của Đại đội 2, Tiểu đoàn 6 sau khi đầu hàng đã dẫn đường cho đối phương đánh phá hậu cứ của ta gây nhiều tổn thất. Trước khi rời Phú Lộc, Phạm Ngọc Tuấn cùng đơn vị còn tham gia phục kích bắn cháy 4 xe M113 ở bắc đèo Phước Tượng.

Tháng 5/1972, Phạm Ngọc Tuấn được điều trở lại làm Đại đội trưởng 12,7 ly – C15. Đại đội của ông yểm trợ hỏa lực đánh địch ở đèo Sơn Na (tức dốc Kim Quy) trên đường 12 – phía tây Huế. Đây cũng là thời điểm Sư đoàn 1 Quân đội Sài Gòn (QĐSG) tái chiếm những căn cứ đã rơi vào tay quân giải phóng nên chiến sự diễn ra vô cùng ác liệt.

Cuối năm 1972, Trung đoàn 6 lại điều Phạm Ngọc Tuấn về làm Đại đội trưởng Đại đội Bộ binh. Đại đội 3 của ông thuộc Tiểu đoàn 6 do ông Hoàng Đức Quỹnh làm Tiểu đoàn trưởng và ông Nguyễn Bá Bì làm Chính trị viên.

Đầu 1974, Sư đoàn 1 QĐSG đã thiết lập tuyến phòng ngự mới ở đường 14.

Nhằm phá vỡ tuyến phòng thủ này, Chỉ huy Trung đoàn đã giao nhiệm vụ cho Tiểu đoàn 6 phối hợp với Trung đoàn 1 (Sư 324) do Lê Hữu Thỏa làm Trung đoàn trưởng tấn công đối phương ở bắc Truồi. Dưới sự chỉ huy của Trung đoàn trưởng Lê Hữu Thỏa, Tiểu đoàn 6 phân công cho C3 đánh đồi 324. Để đảm bảo thắng lợi, tự thân Đại đội trưởng Phạm Ngọc Tuấn cải trang, bí mật áp sát hàng rào; nhờ vậy phát hiện một lối đi an toàn đối phương dành để xuống khe lấy nước.

 Chiều hôm đó, đối phương thay quân. Chớp thời cơ ngay đêm đó, C3 xuất kích. Sau khi dùng 2 dàn DH7 mở cửa, C3 ào ạt xông lên. Đại đội trưởng Tuấn theo mũi của Trung đội trưởng Bùi Thế Kỹ (quê Thạch Thành, Thanh Hóa). Đang tiến quân, bất ngờ Trung đội trưởng Kỹ ngã gục. Hướng về phía có tia chớp vừa lóe của tiếng súng, Tuấn lách mình đánh bay khẩu súng, gí khẩu K54 vào tai thủ phạm bóp cò. Hóa ra người bị bắn cảnh cáo đó là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 129 Địa phương quân. Trận đánh giành thắng lợi và chính Trung đoàn trưởng Trương Đình Thanh tặng cây súng K59 của mình cho Đại đội trưởng Phạm Ngọc Tuấn.

Tháng 10/1974, Sư đoàn 1 QĐSG được Liên đoàn 15 Biệt động quân yểm trợ đã tái chiếm Mỏ Tàu và những vị trí đã rơi vào tay quân giải phóng. Chiến sự ở khu vực này vô cùng ác liệt.

Trong một lần trò chuyện, Quyền Huyện đội trưởng Hương Thủy – Lê Hữu Tòng đã kể cho tôi nghe lần đầu tiên ông gặp Đại đội trưởng Phạm Ngọc Tuấn. Nhận ra giọng Bắc, ông Tuấn ôm và khóc than với ông Tòng: “Quân tôi hy sinh nhiều quá!”.

Quân của C3 hy sinh nhiều. Theo lời thuật của ông Tuấn, chiều đó trong khi ông đang từ Nam Đông trở về thì ở đơn vị, Đại đội phó Nguyễn Văn Vinh dẫn quân đi đánh “chốt” Đồi Bộ (ngọn đồi không tên ở khu vực Bến Ván, xã Lộc Bổn – Phú Lộc) trận này có gần 40 cán bộ, chiến sĩ hy sinh.

Biến đau thương thành sức mạnh, ngay tối hôm đó, Đại đội trưởng Tuấn dẫn 18 binh sĩ còn lại đi đánh. Đối phương chủ quan, bị tấn công bất ngờ nên cả Trung đội lính 54 chốt ở Đồi Bộ bị xóa sổ.

Sau lần gặp gỡ đó, họ trở nên thân thiết. Trưa ngày 5/10/1974, Quyền Huyện đội trưởng Hương Thủy – Lê Hữu Tòng gọi điện báo cho Đại đội trưởng Phạm Ngọc Tuấn biết địch sắp tấn công vào hậu cứ Hương Thủy nên đề nghị C3 hỗ trợ. Hôm sau, từ hướng sông Hai Nhánh chừng một trung đội binh lính Sài Gòn tiến về phía động Mang Chang thì rơi vào trận địa mai phục của Đại đội 3. Hai trung đội (bao gồm cả lực lượng ứng cứu) bị loại khỏi vòng chiến đấu.

Lê Hữu Tòng cùng 3 chiến sĩ gùi tặng C3 một thùng dầu salad và 30 hộp sữa. Đây là tặng thưởng bằng hiện vật đầu tiên nên cán bộ, chiến sĩ C3 nhớ mãi.

Ông Phạm Ngọc Tuấn hiện ở phường Kim Long (quận Phú Xuân). Hơn chục năm ở chiến trường, đánh không biết bao trận, từ Phong Điền đến Phú Lộc ông đều có mặt. Kỷ vật còn lại là những tấm Huân chương Chiến công và tấm giấy chứng nhận sử dụng súng K59 do Trung đoàn 6 cấp, ông nâng niu và giữ gìn vì đó là bằng chứng mà ông dành trọn tuổi thanh xuân dâng hiến cho Tổ quốc.  

Phạm Hữu Thu