Lầu Kiến Trung tráng lệ. Ảnh: Hoàng Lê

Nhìn Huế xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến dần xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm, kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu. Kể từ đây, làng xã của người Việt bắt đầu mọc lên ở xứ sở từng bị xem là “ác địa” này. Một cuộc hành trình vĩ đại của cả dân tộc, khắc họa nên những trang huyền thoại cảm hóa lòng người, chất chứa đầy hào khí Đại Việt qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn… Và, họ đã xác lập, mở ra nơi đây một vùng văn hóa mới, làm giàu thêm ý nghĩa vốn có từ nền văn minh lúa nước sông Hồng. Trong cuộc hành trình này, cội nguồn chính là yếu tố nội sinh, là tiếng gọi xa xăm trong ký ức miên trường.

Nhiều năm trước, khi đất nước đang còn bị chia cắt, những người dân miền Nam sống trên đất Bắc, mặc dù được cưu mang, được chia sẻ mọi sướng khổ của người dân hậu phương lớn, nhưng nỗi nhớ quê hương vẫn luôn đau đáu thường trực sâu tận đáy lòng. Ấy vậy mà sau ngày đất nước hòa ca, khi đã trở lại quê nhà chốn cũ, người ta lại thường hay nghĩ đến đất Tổ Phong Châu. Có lẽ từ ngàn xưa tổ tiên, chúng ta không chỉ mang gươm đi mở cõi, mà họ còn phải cõng theo cuốc cày, hạt giống, cả cách chăn nuôi, trồng trọt; đồng thời, gánh luôn y thuật, chữ viết, lễ hội và cả “tên đất tên làng” để vượt qua lam sơn chướng khí mà sinh tồn, mà thích nghi chịu đựng, mà phát triển.

Xứ Thuận Hóa, giữa buổi đầu người Việt chỉ có vài ba chục hộ với vài trăm dân. Hay cận hơn là một ngôi làng Phú Xuân của Huế. Phú Xuân vốn chỉ là cuộc đất của làng cổ Thụy Lôi, sau được chọn làm thủ phủ của chúa Nguyễn; rồi Nguyễn Huệ dựng Kinh đô nhà Tây Sơn, phát triển nên một giai đoạn rực rỡ văn hóa Phú Xuân; khi Nguyễn Phúc Ánh giành lại giang sơn, lên ngôi vua – Phú Xuân trở thành Kinh đô sầm uất của nước Việt Nam thống nhất liền một dải – nay hẹp lại, nói gọn hơn về một xứ Huế đẹp và thơ. Cuộc địa Huế xưa vốn chỉ mảnh đất biên viễn, từng là tiền phương của Đàng Ngoài khi quân của chúa Trịnh vượt Hoành Sơn qua sông Gianh, rồi lại trở thành hậu phương của Đàng Trong khi chúa Nguyễn tiến xuống sông Tiền, sông Hậu.

Dưới thời Pháp thuộc, theo thiết chế đô thị Tây phương, Huế trở thành thị xã, rồi lên thành phố tiến dần đến đô thị loại III, một bước đã qua đô thị loại II, và mới đây vào tháng 8/2005, Thủ tướng Chính phủ có quyết định công nhận Huế là đô thị loại I thuộc tỉnh. Điều này hoàn toàn có lý khi Huế đã ở vào vị trí xứng đáng, và có những mặt còn vượt xa qua các thành phố lớn khác. Từ rất lâu, vào những năm 60 của thế kỷ trước, trong quan niệm của người Việt Nam đã xem Huế là một trong ba thành phố “Hà Nội – Huế – Sài Gòn” và là một trong sáu thành phố lớn của đất nước.

Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế vốn được thiên nhiên biệt đãi về cảnh quan và địa cuộc phong thủy; đồi núi nối nhau như rồng cuộn hổ ngồi cùng chầu về tận đồng bằng các huyện. Sông Hương, con sông thi ca uốn mình qua ghềnh thác mà vẫn tải nặng phù sa văn hóa tâm linh chảy vào giữa lòng thành phố. Chính nhờ chiều sâu ấy mà khuôn mặt vốn đã diệu kỳ của kiến trúc Kinh thành Huế lại càng kỳ diệu hơn. Chỉ bằng ấy thôi, Huế cũng đủ “tiêu chí” là một thành phố lớn, đặc biệt rồi. Sở dĩ đặc biệt vì nó hiện hữu nhiều đặc trưng văn hóa, tuy không đồ sộ, ồn ào nhưng cái gì cũng có, cũng chất chứa sâu thẳm của văn hóa và lịch sử dân tộc.

Nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đã khẳng định, không chỗ nào trên đất Huế mà không có dấu kiềm ấn văn hóa học, thậm chí nhiều tầng văn hóa trên một không gian, trên một bình diện hẹp. Huế vừa cũ lại vừa mới, vừa cổ lại vừa tân, vừa truyền thống vừa hiện đại… Huế mang trên mình Cố đô Đại Việt, đồng thời cũng cõng luôn địa cuộc khai mở ra dòng thiền Liễu Quán mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo Việt Nam. Huế gánh trên vai sứ mệnh di sản đồ sộ của văn hóa dân tộc trước khi nhân loại xếp thêm cho Huế là Di sản văn hóa thế giới. Huế đã, đang và sẽ là thành phố đặc trưng của lễ hội bốn mùa – Thành phố Festival văn hóa của Việt Nam. Mà đã như thế, hiển nhiên Huế phải được hưởng một quy chế đặc biệt. Nói cách khác, Huế rất cần có một chính sách ứng xử văn hóa trong quy hoạch kiến trúc theo một triết lý đặc biệt, xuất phải từ cách nhìn đặc biệt của người Việt Nam.

Đầu thế kỷ hai mươi, cụ Phan Kế Bính cho rằng, núi sông, ghềnh thác, biển cả, mây bay, gió thoảng, cầu vồng mọc, sao băng, sấm chớp, sóng nước nhấp nhô, thậm chí là cả giông tố, bão lũ… đều là văn chương của trời đất. Còn như đền đài, cung điện, triều miếu, lầu son gác tía xưa nay, hay như nhà ga, bến cảng, khách sạn, trường học, bệnh viện cho đến sân khấu, hý trường cũng đều là văn chương chữ nghĩa, đạo lý của con người. Chứ không riêng gì tác phẩm văn chương thi phú, văn hóa nghệ thuật được thể hiện ở trình độ văn minh của từng đoản kỳ được sáng tạo, biên khảo của từng thế hệ văn nhân, tài tử… mới là văn chương nghệ thuật.

Với địa cuộc Huế, dường như là sự kết hợp nhiệm mầu giữa cảnh quan Thiên nhiên với Trời Đất và Con Người là đồng tác giả tạo nên tác phẩm tổng thể kiến trúc thành phố di sản Cố đô xen giữa vườn xanh cây trái, trong đó vượt lên những giá trị kiến trúc Kinh thành Huế, ẩn chứa rất sâu về triết lý phương Đông, nó vừa kỳ vĩ vừa tuyệt mỹ lại vừa đặc biệt thân thiện với đời sống xã hội một cách tự nhiên để làm nên “Bài thơ đô thị Huế” hôm nay.

Tục ngữ có câu: “Thà có một còn hơn là hai sẽ có”. Và Huế đã có những sáu di sản văn hóa giá trị vượt trội toàn cầu cho riêng mình, đó là: Quần thể di tích Cố đô; Nhã nhạc cung đình Việt Nam – Cung đình Huế; Mộc bản Triều Nguyễn; Châu bản Triều Nguyễn; Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế; Những hình đúc nổi trên chín đỉnh đồng (Cửu Đỉnh) ở Hoàng cung Huế… Và Huế còn góp thêm hai di sản văn hóa phi vật thể với các tỉnh được UNESCO công nhận, đó là Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt; Nghệ thuật Bài chòi Trung Bộ đều trở thành kiệt tác văn hóa thế giới. Chắc chắn trong tương lai gần, Huế vẫn còn nhiều di sản sẽ được thế giới ngưỡng mộ tôn vinh là kiệt tác văn hóa di sản của nhân loại.

Và tuyệt diệu hơn, thi vị hơn khi sông Hương, con sông báu vật vô giá của Việt Nam trở thành tác phẩm nghệ thuật tạo hóa có giá trị vượt trội toàn cầu. Vậy thì, Huế lại có những di sản văn hóa đặc biệt giá trị nhiều hơn!  Huế đã và đang chuyển mình hội nhập với thế giới để vươn lên trở thành một đô thị văn hóa di sản đặc trưng, một thành phố cổ kính đặc biệt, thành phố thông minh thật sự hiện đại vượt trội toàn cầu nhưng lại giàu bản sắc truyền thống cổ xưa của văn hóa Việt Nam. Những gì mảnh đất linh diệu này đem lại giá trị cho văn hóa Huế – văn hóa Việt Nam, giúp ta nhận diện rõ hơn về một miền di sản dân tộc, đó mới là phong hóa, là nhân văn, là chiều sâu đậm tính cách của con người Thuận Hóa – Phú Xuân, của người dân xứ Huế từ muôn đời nay.

Dương Phước Thu