Quân giải phóng tiến vào Ngọ Môn (Huế) sáng 26/3/1975. Ảnh: TTXVN

Một người con của Huế đã vinh dự có mặt tại đây…

Nơi ấy là “Nhà Rồng” trong Hoàng thành Thăng Long; gọi thế vì “có hai con rồng bằng đá chầu hai bên chín bậc thềm (cửu trùng) dẫn vào chính điện Kính Thiên. Gian giữa là phòng họp, là nơi giao ban hàng ngày giữa Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng. Hai phó Tổng Tham mưu Cao Văn Khánh và Vương Thừa Vũ thì làm việc ở phòng đầu nhà bên trái…”.

PGS. Cao Bảo Vân, ái nữ của tướng Cao Văn Khánh, khi “lặn lội” khắp nơi đi tìm tư liệu, dấu tích hoạt động của thân phụ đã miêu tả như thế trong cuốn hồi ức nổi tiếng Tướng Cao Văn Khánh (NXB Tri Thức, 2017) dày gần ngàn trang. “Lời tựa” cuốn sách có đoạn viết: “Cho đến Tết Canh Dần 2010, Tổng hành dinh Quân đội nhân dân Việt Nam trong Hoàng thành lần đầu tiên hé mở cho tham quan. Cô Lady Borton, người bạn sử gia Mỹ đến cho mẹ tôi xem tấm ảnh biển tên “Cao Văn Khánh” cô chụp trên bàn họp Quân ủy Trung ương. Cô bảo: “Ở hầm ngầm dưới điện Kinh Thiên, nhiều ảnh ông Khánh chụp cùng tướng Giáp lắm”…

Tại “địa chỉ” cẩn mật này, từ giữa năm 1973, Trung ương đã thành lập “Tổ Trung tâm” – nhóm đầu não chiến lược, lúc đầu do tướng Lê Trọng Tấn phụ trách. “Ngay khi từ chiến trường Quảng Trị – Cửa Việt về lại Bộ Tổng Tham mưu cuối năm 1973, đầu năm 1974, Tướng Cao Văn Khánh được bổ sung vào Tổ Trung tâm… Có nhà văn quân đội đã phát hiện sự trùng hợp thú vị: “Lê Trọng Tấn và Cao Văn Khánh là hai chỉ huy được Đại tướng giao nghiên cứu đánh tập đoàn Điện Biên Phủ. Giờ vẫn là hai người đó, phụ trách Tổ Trung tâm…” (Sách “Tướng Cao Văn Khánh, nhà tham mưu chiến lược” – NXB Quân đội nhân dân, 2011).

Cao Văn Khánh được chọn vào “Tổ Trung tâm” không chỉ là một vị tướng có tài ở “tầm tham mưu chiến lược” như nhà văn hóa Hữu Ngọc đã viết, mà còn luôn dành được sự tin cậy đặc biệt của những vị lãnh đạo tối cao, mặc dù lý lịch gia đình ông thuộc loại “phức tạp”, nên là người duy nhất đeo lon đại tá 26 năm mới được lên Thiếu tướng và cuối đời là Trung tướng! Một điều thật có ý nghĩa, khi đất nước đang rất quan tâm việc trọng dụng nhân tài. Hồi ký “Những năm tháng quyết định” của Đại tướng Hoàng Văn Thái (NXB Quân đội nhân dân, 2001) cho biết vai trò và những hoạt động của tướng Cao Văn Khánh tại “Tổ Trung tâm” trong quá trình soạn “Dự thảo chiến lược” như sau: “Trong quá trình rà xét lại bản dự thảo kế hoạch chiến lược, anh em trong Tổ Trung tâm do anh Lê Trọng Tấn, sau đó anh Cao Văn Khánh chỉ đạo, đã nhanh chóng nhất trí về đánh giá địch, ta và tình hình quốc tế…”.

Trong “Bản dự thảo chiến lược”, yêu cầu đặt ra cho năm 1975 gồm 8 điểm, trong đó, điểm số 8 mang tính chỉ đạo then chốt; “Hoàn thành về cơ bản mọi công tác chuẩn bị để có thể chủ động thực hành tổng công kích – tổng khởi nghĩa, nếu thời cơ chiến lược xuất hiện sớm”.

Bản kế hoạch chiến lược này sau 7 lần bàn thảo, đến ngày 26/8/1974 được hoàn chỉnh với hướng đánh chính là Tây Nguyên; sau đó, “được trình lãnh đạo Đảng duyệt tại một phiên họp kéo dài của Bộ Chính trị vào tháng 10/1974”.

Vào thời điểm này, Trung ương vẫn chưa quyết định kế hoạch kết thúc chiến tranh trong năm 1975, do “cán cân lực lượng vẫn nghiêng về phía quân lực Việt Nam Cộng hòa”: 1,2 triệu lính của Tổng thống Thiệu đối đầu với 220.000 chiến sĩ quân “giải phóng”. Nhưng sau hai trận đánh có tính “thăm dò” tại Thượng Đức (từ 29/7 đến 5/8/1974) và Phước Long (ngày 6/1/1975) cho thấy Mỹ không quay trở lại và quân lực Việt Nam Cộng hòa không thể đương đầu với Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ thực tế đó, tại cuộc họp Bộ Chính trị mở rộng từ ngày 23/12/1974 đến 8/1/1975, đã có kết luận quan trọng: “…Chiến thắng Phước Long mở ra khả năng giành thắng lợi theo phương án dự kiến 2 năm 1975-1976 và quyết tâm kết thúc chiến tranh sớm trong năm 1975 khi thời cơ đến”… Tại Bảo tàng Cách mạng TP. Hồ Chí Minh có ảnh cho thấy tướng Cao Văn Khánh là 1 trong 24 người tham dự cuộc họp lịch sử này.

Không chỉ có vậy, hầu như tất cả những cuộc họp quan trọng nhất trước thềm đại thắng Xuân 1975, Bộ Tổng tham mưu đều giao cho tướng Cao Văn Khánh báo cáo. Hồi ký của Đại tướng Hoàng Văn Thái đã dẫn là bằng chứng tin cậy về điều đó. Ví như trang thuật lại cuộc họp chung ngày 27/4/1975 giữa các cơ quan, đơn vị giúp Quân ủy Trung ương theo dõi chiến dịch, tướng Hoàng Văn Thái đã viết: “…Mở đầu cuộc họp, anh Khánh chính thức thông báo…” Và chỉ ít dòng sau, Đại tướng viết: “Anh Cao Văn Khánh trình bày tình hình mọi mặt…”. Và sáng 30/4, “Anh Ba, anh Trường Chinh, anh Đồng vào Nhà Rồng từ sớm. Anh Văn cũng có mặt… Sau khi nghe anh Khánh báo cáo, các anh trao đổi ý kiến đánh giá tình hình”. Khoảng 8 giờ, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương viết và cho gửi bức điện nhiệt liệt khen ngợi toàn thể các đơn vị… Anh Khánh được mời lên báo cáo…”.

Cho đến sáng 30/4, “…Đồng chí Thanh, Cục phó Cục II, tất tưởi đi như chạy, cười tươi như hoa, báo cáo với Phó Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Khánh và Vương Thừa Vũ: “Ta đã giải phóng Sài Gòn…”.

Hơn hai chục năm sau, khi bắt tay viết cuốn Hồi ức “Tướng Cao Văn Khánh”, PGS. Cao Bảo Vân mới có dịp hỏi “chú Xuân” – người thư ký tin cậy của tướng Cao Văn Khánh: “Vì sao ba cháu là người duy nhất trong các tướng chiến trường không được vào Nam tham gia Tổng tiến công?”. Chú đã cười nhẹ: “Thì ba cháu phải ở lại giúp bác Văn điều hành chiến dịch toàn chiến trường chứ”.

Cũng vì thế, trưa ngày 30/4/1975, sau khi Đài Tiếng nói Việt Nam chính thức loan tin Giải phóng Sài Gòn, “Tại Sở chỉ huy, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ngồi lại cùng Thiếu tướng Cao Văn Khánh, Tổng Tham mưu phó và một số cán bộ, Đại tá Lê Hữu Đức, Cục trưởng tác chiến, Đại tá Nguyễn Trọng Yên, Cục trưởng Tuyên huấn và một số cán bộ khác… Được sống trong giờ phút lịch sử, ai cũng muốn ghi lại hình ảnh vô giá này…”.

Với riêng tướng Cao Văn Khánh, sau ba thập kỷ xa Huế, vị tướng trải qua những chiến trường ác liệt nhất đã được trở về đứng trước căn nhà xưa bên đường Ngự Viên thuộc khu phố cổ Chi Lăng. Ngôi nhà đã thuộc về người khác, nhưng vị tướng trận mạc có niềm vui chung với hàng triệu đồng bào khi trọn vẹn dải đất hình chữ S từ đây vĩnh viễn được độc lập, tự do!…

(Những thông tin trong bài trích từ sách “Tướng Cao Văn Khánh”)

Nguyễn Khắc Phê