Vi Dã Hợp Tập, Phần Thi, Tập 1 |
Từ “Vy Dã” đến “Vỹ Dạ”
Cho đến nay, có một số giả thuyết khi nói về tên gọi “Vỹ Dạ”.
Thứ nhất, vùng đất này nguyên có tên là “Vy Dạ”; “vy” là lau sậy, “dạ” là đầm lầy, “vy dạ” là vùng đầm lầy nhiều lau sậy.
Thứ hai, ban đầu vùng đất này có tên là “Vỹ Dã” nghĩa là “cái đuôi của cỏ lau”.
Thứ ba, lại có cách giải thích nôm na: Cái tên Vỹ Dạ xuất phát từ sự hưng thịnh không gian văn chương thơ phú của vùng đất. “Vỹ” là cái đuôi, “dạ” là đêm, “vỹ dạ” là quãng thời gian cuối đêm rạng sáng. Xưa thôn Vỹ là nơi các ông hoàng, bà chúa thường tổ chức những cuộc giao du đàn ca xướng hát, quy tụ tao nhân mặc khách về ngâm vịnh thâu đêm…
Thứ tư, ban đầu vùng đất có tên “Vy Dã”. Cái tên Vỹ Dạ là do người Huế đọc “trại” từ “Vy Dã”. “Vy” là lau sậy, “Dã” là cánh đồng, “Vy Dã” có nghĩa là cánh đồng lau sậy. Người con thứ 11 của Thánh tổ Minh Mạng là Nguyễn Phúc Miên Trinh (Tuy Lý Vương), chọn vùng đất thơ khi còn là “vy dã” (cánh đồng lau lách) ven sông Hương để lập phủ, cho nên tên gọi “Vy Dã” khởi sự từ đó. “Vy Dã” cũng là tên hiệu của ông.
Trong các giả thuyết nói trên, các nhà nghiên cứu nghiêng về giả thuyết thứ tư: cái tên Vỹ Dạ là kết quả của đọc trại, nói trại từ “Vy Dã” mà nên. Cách lý giải này có lý do, bởi vùng đất Vỹ Dạ kể từ thời cận đại đến nay, được tiếng thịnh vượng văn vật đã sản sinh và tụ hội rất nhiều tao nhân mặc khách nổi tiếng.
Tuy Lý Vương là một trong những tên tuổi lừng lẫy. Ông sinh năm 1820, hiệu Tĩnh Phố và Vy Dã, là người uyên bác, giỏi thơ và thạo cả nghề thuốc. Năm 1839, Miên Trinh được phong là Tuy Quốc công, cho lập phủ riêng gọi là Tĩnh Phố. Năm 1878, ông được phong làm Tuy Lý Quận Vương, rồi thăng làm Tông Nhân Phủ Hữu Tông Nhân (1882), được phong tước Tuy Lý Vương năm 1883. Hiện, ở Vỹ Dạ có con đường mang tên Tuy Lý Vương, và ngôi Phủ Tuy Lý Vương đã được công nhận là Di tích văn hóa Quốc gia. Bây giờ, phủ vẫn tạo nên một cõi không gian thanh thoát, phảng phất trầm hương, toát lên sự uy nghiêm, trầm mặc.
Vi Dã Hợp Tập, Tập 1, trang 02, 03 |
Trang thơ hoàng tộc tài hoa và nhân ái
Tuy Lý Vương nằm trong bộ tứ “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán/Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường” (tạm dịch: so văn chương của Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát thì văn thời tiền Hán cũng không lấy làm giá trị; so thơ của Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thì thơ Đường thời thịnh cũng như không có gì)…
Cuộc đời của ông không suôn sẻ như các hoàng tộc khác. Năm Quý Mùi (1883), xảy ra chuyện Hồng Sâm, con trai của Miên Trinh, mưu cùng vua Hiệp Hòa, nhờ tay Pháp để trừ hai ông Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường. Việc bại lộ, cả vua Hiệp Hòa và Hồng Sâm đều bị giết. Miên Trinh bị cách hết chức, giáng xuống tước Tuy Lý Huyện công, đày vào Quảng Ngãi. Đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi (1886), ông mới được tha về. Năm 1894, ông lại được tấn phong làm Tuy Lý Vương. Ông bị bệnh mất tháng 11/1897, hưởng thọ 77 tuổi.
Thơ văn Tuy Lý Vương được tập hợp trong “Vy Dã hợp tập”, in năm Tự Đức Ât Hợi (1875), gồm 12 tập với khoảng 900 bản khắc in; ngoài ra còn có “Tuy Quốc công thi tập”, “Nữ phạm diễn nghĩa từ” (thơ chữ Nôm viết bằng thể lục bát)… Thơ của ông có đề tài phong phú, từ vịnh danh lam thắng cảnh của đất nước như chùa Thiên Mụ, chùa Đồng Thiên… đến các hiện tượng thiên nhiên như mưa, nắng, nhật thực…, chim muông, các ngày tết Nguyên đán, Trùng cửu, Đoan ngọ, các cuộc đi chơi núi, chơi chùa, chơi thuyền…; nhưng cũng có một số bài gần gũi với hình ảnh người dân lao động.
Văn của Tuy Lý Vương cũng rất giá trị. Các bài ký như “Tĩnh Phố ký”, các bài phú về cây lau, cây trúc, về duyệt tập các thế trận thủy bộ ở Thuận An đều rất hàm súc, được người đương thời tán tụng. Ông đã viết rất nhiều tựa, bạt cho các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng. Ông cũng viết lời bạt cho tập “Ngự chế diễn Luận ngữ ca” của vua Tự Đức, với câu từ rất tinh tế.
Thơ văn Tuy Lý Vương cũng có nhiều bài gần gũi với thiên nhiên, với nông thôn xứ Huế. Nhà thơ phát hiện ra nhiều cảnh nét đẹp lôi cuốn của đời sống thường nhật. Đây là cảnh một sườn núi: “Dưới thung, nắng quái tắt/ Lưng núi, sáng mây hồng/ Cửa sài vây sắc trúc/ Đường đá gợi reo tùng/ Giữ khách, hiên tranh vắng/ Pha trà, nước giếng trong…” (Đề sơn nhân bích). Đây là cảnh các thiếu nữ giặt áo bên hồ: “Má hồng son phấn đi vào hoa/ Bướm bay vờn trên xiêm áo” (Nam Hồ).
Tuy không có nhiều tác phẩm gần gũi với người dân lao động như Tùng Thiện Vương, nhưng trong thơ ông cũng có hình ảnh chú bé chăn trâu, chiếc xe cút kít chở đất, vách nhà người dân sơn cước, làng chài đêm thu, ngôi chùa trên núi dưới trăng… Có khi trong thơ vẳng tiếng sáo trẻ trâu: “Lưng trâu nắng tắt trong mơ/ Bờ tre tiếng sáo vẳng đưa chiều về” (Trẻ chăn trâu). Có khi ông nghĩ về người nông dân vất vả một nắng hai sương: “Gà gáy lo ăn sáng/ Lá sen đùm nắm trao/ Trăng tà ngang cửa trúc/ Ngõ xóm bóng cây giao/ Bước bước dẫm sương móc/ Lối mòn như mỡ chao/ Mạ cấy dưới đồng trũng/ Nước chuyền lên ruộng cao/ Suốt ngày gian khổ thế/ Già cả nhọc làm sao” (Nói về nhà nông)…
Còn đây là ông nói giúp trong “Lời người đàn bà nuôi tằm”: “Thà bụng em chịu đói/ Chứ không để tằm ăn không no/ Em đói, chỉ khổ một mình em/ Nhưng tằm no thì nuôi sống cả nhà tám miệng ăn”. Sống và chứng kiến cảnh đất nước bị nạn ngoại xâm, ông cũng rất đau lòng: “Xóm làng cõi Bắc trơ khung cửi/ Đồn lũy miền Nam rộn lửa binh/ Áo gấm thịt quay nào bổ ích/ Thẹn phường tu luyện phép trường sinh” (Cuối năm).
Ông có những câu thơ hết sức tài hoa như: Thiếu sam nhân ỷ châu lan khúc/ Mang sát vương tôn tử mạch đầu” (“Người áo đỏ đứng tựa lan can ngọc quanh co uốn khúc/ Làm nao lòng nát dạ kẻ vương tôn trên lối đi màu tím” – Xuân thành khúc).
Đã gần 1,5 thế kỷ từ khi ông mất, thơ văn của ông cũng chưa được nhiều người để tâm nghiên cứu, mới chỉ có cuốn “Tuy Lý Vương” của Trần Thanh Mại xuất bản năm 1938. Thiết nghĩ hai vế đối lâu nay truyền tụng “Văn như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường” tuy có thể hơi khoa trương, song không phải hoàn toàn vô căn cứ. Đó là điều đời sau cần lưu ý.
Nguồn: https://huengaynay.vn/van-hoa-nghe-thuat/nha-tho-vy-da-o-vy-da-150341.html