Cầu vượt sông Hương đường Nguyễn Hoàng đang dần hoàn thiện. Ảnh: Đình Hoàng

Dù đã rời khỏi xóm một năm trong diện tái định cư giao mặt bằng xây dựng công trình, nhưng nhiều người ở các kiệt 266, 269 đường Bùi Thị Xuân, phường Phường Đúc thỉnh thoảng về nơi ở cũ, thăm đình Giang Dinh với bao hồi ức thân thương một thời gắn bó, ngắm công trình cầu ngày ngày vươn mình trên bến nước sông quê. Tôi thường đi với bạn thân cùng xóm là Hồ Bình, người thủ từ của đình Giang Dinh bên chân công trình cầu mới. Tôi và Bình nhớ mãi dịp Festival Huế 2010, lễ hội “Thao diễn thủy binh thời các chúa Nguyễn” chủ yếu diễn ra đoạn bờ sông trước đình làng Kim Long, nhưng người bên này Giang Dinh cũng đông như hội, xem 70 chiếc thuyền tái hiện cảnh diễu hành thủy binh và tác chiến trên sông, lần hiếm hoi pháo hoa được bắn lên từ sân đình Giang Dinh.

Cầu vượt sông Hương nối hai vùng đất gắn bó lịch sử đôi bờ sông Hương, tiêu biểu với kiến trúc hai bên cầu là đình làng Kim Long và đình Giang Dinh.

Ở phía bắc, đình Kim Long gắn liền mật thiết với quá trình hình thành và phát triển của thủ phủ Kim Long, trung tâm chính trị, văn hóa, quân sự và kinh tế của xứ Đàng Trong vào thế kỷ XVII từ khi chúa Nguyễn Phúc Lan dời thủ phủ từ Phước Yên về Kim Long năm 1636.

Ở phía nam, đình Giang Dinh nằm trong “Năm dãy thợ đúc” gồm Giang Dinh, Giang Tiền, Kinh Nhơn, Bản Bộ, Trường Đồng, gọi là Phường Đúc, một phường thợ ra đời từ tổ chức của những thợ thuyền cùng nghề đúc dưới thời chúa Nguyễn, nằm đối diện với phủ chúa Nguyễn ở Kim Long. Giang Dinh là nơi có dinh thủy binh; Giang Tiền hay Giang Thuyền là nơi trú đóng thuyền bè; Kinh Nhơn là nơi cư ngụ của ty đội gốc người Kinh Bắc; Bản Bộ là nơi ở của ty đội từ hai xã ở Quảng Bình được chúa Nguyễn tuyển vào; Trường Đồng hay Trường Đúc là công xưởng đúc đồng của chúa Nguyễn.

Theo gia phả của dòng họ Nguyễn Kinh Nhơn thì quê quán xưa là làng Đồng Xá, huyện Siêu Loại, tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên, do các yếu tố lịch sử tách nhập địa giới nên Đồng Xá quê xưa sau này là xã Đại Đồng (huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên), nơi có làng đúc Lộng Thượng (làng Rồng), chùa Nôm nổi tiếng. 

Phường Đúc xưa do chúa Nguyễn lấy đất ven sông của làng Dương Xuân cho cư dân nhiều nơi đến đây ở và làm nghề thợ đúc nên biệp lập với làng Dương Xuân hình thành trước, vào thế kỷ XV. Vì vậy, các xóm nơi đầy đều lập các đình xóm riêng, “đình xóm xây sát bờ sông thờ vị Thành hoàng – Khai canh (tuy kiến trúc và bài trí như miếu, nhưng Nhân dân vẫn gọi là đình). Cư dân tuy có nghề nghiệp chung, nhưng nguồn gốc quê quán khác hẳn nhau” (Lê Nguyễn Lưu, Quân đội xứ Đàng Trong: Pháo binh, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4, 2017). Qua thời gian, địa điểm cư trú có thay đổi giữa các xóm và đón những người mới đến lập nghiệp như gia đình ba mẹ, anh em Nghệ nhân Nhân dân Nguyễn Văn Sính, họ Nguyễn Kinh Nhơn có thời gian dài cư trú ở Giang Dinh.

Giang Dinh và các đình khác ở “Năm dãy thợ đúc” tuy không lớn về quy mô kiến trúc, nhưng có nhiều ý nghĩa trong sinh hoạt cộng đồng làng xã ở đất Cố đô. Bên cạnh việc thờ phụng, tế lễ thần linh riêng của xóm chứ không liên quan gì đến làng Dương Xuân, đại diện các xóm “Năm dãy thợ đúc” cũng được mời vào dự lễ thu tế ở đình làng Dương Xuân Hạ. Làng Dương Xuân cũ tách thành hai làng Thượng, Hạ dưới thời Triều Nguyễn.

Theo dòng chảy thời gian, từ thời chúa Nguyễn cho đến các vua Nguyễn, những người thợ đúc đồng Phường Đúc xưa đã làm nên những kiệt tác đúc đồng trong Quần thể kiến trúc Cố đô Huế là di sản thế giới từ vạc đồng Đại Nội (1659-1684), chuông chùa Thiên Mụ (1770) đến Cửu vị Thần công (1804), Cửu đỉnh (1835). Có tác phẩm được công nhận là bảo vật quốc gia, đặc biệt là vào tháng 5/2024 những bản đúc nổi trên Cửu Đỉnh – Hoàng cung Huế trở thành Di sản Tư liệu Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á – Thái Bình Dương của UNESCO .

Đình Giang Dinh và các đình khác ven sông có ý nghĩa như vậy, nhưng cũng suýt bị “xóa sổ” trong một phương án xây dựng đường Nguyễn Hoàng và cầu vượt sông Hương. Tháng 7/2016, thành phố Huế trưng bày bản đồ quy hoạch hai bờ sông Hương, trong đó quy hoạch xây dựng cầu mới qua sông Hương ở vị trí cách đình Giang Dinh hơn 100 mét về phía hạ du. Phương án điều chỉnh sau đó là lấy tim đường Nguyễn Hoàng bên kia sông gióng thẳng một đường về bên này sông, bộ phận khảo sát đã đặt các cột mốc địa giới trên bờ sông. Phương án này phù hợp với đường kết nối, cảnh quan, nhưng sẽ xuyên qua đình Giang Dinh và một số công trình tôn giáo ở đường vành đai, buộc phải điều chỉnh tránh đình xóm và nắn tuyến đường tránh các di tích và chùa chiền, đó là mặt bằng và hướng tuyến đang thi công hiện nay nằm sát phía trên đình Giang Dinh.

 Hồ Bình, người thủ từ cho biết, dự án cầu đường có thu hồi 4,6m2 đất khuôn viên đình xóm, đền bù gần 12 triệu đồng dành để sửa sang đình xóm sau khi công trình cầu hoàn thành. Đơn vị thi công cầu là Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Trung Chính đã di chuyển một số hiện vật khác ở gần bờ sông như khối đá thờ, bia đá sau khi tham khảo người dân về vị trí đặt mới trước đình, tô vữa chắc chắn, đồng thời hứa sẽ xây dựng lại sân đình đẹp và khang trang.

Phường Đúc có 120 hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi công trình cầu và đường dẫn vào cầu vượt sông Hương. Có những yêu cầu, tâm tư buổi đầu về giá trị đền bù, giải tỏa, bố trí đất ở mới, nhưng có thể nói đến nay, gần như tất cả người dân tái định cư đều hài lòng, nhất là những hộ gia đình sống trong đường kiệt hẹp, nhà cửa xuống cấp, ngập lụt hằng năm, bây giờ được ở mặt tiền đường nhựa có tên đường, số nhà, không bị ngập lụt. Như gia đình anh chị em Hồ Bình bạn tôi, bốn hộ gia đình với gần 20 người sống chen chúc trong một căn nhà cấp 4 xuống cấp, xập xệ trong kiệt nhỏ, nay được bố trí 4 lô đất ở cao ráo, rộng rãi để làm nhà ở, đó đúng là một ước mơ, là sự đổi đời. 120 hộ bị ảnh hưởng, nhưng chỉ có 2 trường hợp chính quyền phải quyết định cưỡng chế mà chiều trước ngày thực hiện, với sự vận động của bà con trong xóm, 2 hộ trên đã chủ động giao mặt bằng cho dự án để mọi việc diễn ra êm đẹp, vui vẻ.

Vòm cầu vàng mới đã vươn cao trên sông Hương, trong không gian Huế giữa hai bờ sông qua Kim Long, Phường Đúc. Người ta nói đó là kiến trúc độc đáo dạng vòm biểu tượng “hạc chầu Thiên Mụ” mang thông điệp về sự trường tồn của vùng đất Cố đô linh thiêng. Tôi nghĩ đơn giản hơn, dáng hai trụ cầu như dáng cò bay lả trên sông gần gũi, thân thương như câu dân ca “Con cò bay lả bay la/Bay từ cửa miếu bay ra cánh đồng”. Và một ngày mùa xuân hay sự kiện, lễ hội nào đó của vùng đất Cố đô, thành phố trực thuộc Trung ương, pháo hoa lại rực rỡ trên cầu mới qua sông Hương.

Nguyên Du