Các tác phẩm của Trần Vàng Sao, Đạm Phương nữ sử, Tô Nhuận Vỹ được in thành sách 

Nhà văn đi taxi tháng uống cà phê

Trong giới văn nhân xứ Huế, một tháng trích bảy, tám triệu đồng cho thú vui “cà phê buổi sáng” như nhà văn Tô Nhuận Vỹ chắc không có nhiều. Chính phu nhân của ông, nhà văn Phạm Thị Cúc vừa cười vừa “méc” cái thú này của chồng: “Gần như sáng nào cũng vậy, anh dậy sớm, gọi taxi để xuống vỉa hè đường Nguyễn Trường Tộ cà phê với một nhóm anh em văn hữu, sáng nào không đi là như thiếu gì đó”. Dẫu dạo này sức khỏe có giảm, nhà văn đi lại khó khăn nhưng nhu cầu giao lưu với bạn hữu lại càng tăng… Khi chúng tôi ghé ngôi nhà nhỏ của gia đình ông trên đường Đại Nam, ông đi cà phê sáng còn chưa về.

Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang. Ông học Trường đại học Sư phạm Hà Nội (1964) cùng khóa với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà phê bình Vương Trí Nhàn, nhà văn Nghiêm Đa Văn, nhà văn Tô Hoàng… Tốt nghiệp, ông về dạy học ở Hậu Lộc, Thanh Hóa, được một năm thì tình nguyện vào chiến trường Thừa Thiên làm phóng viên (báo Giải phóng, Cờ Giải phóng). Như ông từng nói, chính cuộc sống và chiến đấu của người dân quê nhà đã đặt cây bút vào tay ông, để ông trở thành tác giả của 3 tập truyện ngắn, 1 tập tiểu luận, 4 tiểu thuyết; trong đó, có tiểu thuyết “Dòng sông phẳng lặng” (3 tập) là tiểu thuyết mang vóc dáng sử thi và dài tập nhất trong văn học giải phóng miền Nam. Văn chương Tô Nhuận Vỹ trước và sau năm 1975 đều chủ yếu viết về đất và người xứ Huế. Ngoài ra, ông còn đảm nhận nhiều chức vụ trọng yếu của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Văn nghệ Thừa Thiên Huế, chức vụ cuối cùng trước khi nghỉ hưu của ông là Giám đốc Sở Ngoại vụ Thừa Thiên Huế. Ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật (2012).

Khi nghe chúng tôi nhắc đến chủ đề câu chuyện “Văn chương tuổi Tỵ của xứ Huế”, ông cười: “Tôi không mấy tin vào tử vi, lý số, nhưng những người sinh ra cùng tuổi, trưởng thành cùng thời, chắc chắn là ít nhiều có điểm chung. Ví như, thế hệ chúng tôi, nếu không có chiến tranh, không được chiến đấu trên chính mảnh đất quê hương mình những năm tháng ấy, chắc không mấy người trở thành nhà văn”. “Thời của chúng tôi” mà ông nói đến đó là những tác giả đã có tên tuổi như: Trần Vàng Sao, Trương Thị Cúc, Nguyễn Minh Ngọc, Nguyễn Đức Sĩ Tiến, Nguyễn Đức Sơn… Họ đều là những người lặng lẽ đến với văn chương sau khi đã dốc cạn sức lực cho đất nước trong cuộc chiến tranh thống nhất đất nước và trong cả thời bình.

Những tuổi Tỵ lừng lẫy trên văn đàn

Người đầu tiên phải kể đến là tác giả Đạm Phương nữ sử (1881-1947). Bà tên là Công Tôn Nữ Đồng Canh (cháu nội của vua Minh Mạng), hiệu là Đạm Phương, thường gọi là Đạm Phương nữ sử (người dạy học cho các công chúa, cung nữ). Bà là nhà văn, nhà thơ, nhà hoạt động văn hóa, là một trong những nhà báo nữ đầu tiên và nổi tiếng giai đoạn mở đầu của làng báo Việt Nam. Tác giả Đạm Phương là nữ trí thức được đào tạo nghiêm cẩn, thành thạo chữ Hán, chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Thơ của bà chủ yếu là xướng họa, vịnh cảnh, vịnh sử (Vịnh Cờ hoa lau, Hai Bà Trưng, Bà Triệu Ẩu, Bà Mỵ Châu).

Nếu căn cứ vào những bài thơ, những tản văn viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của bà (Nhớ cảnh núi, Trời thu cảm hoài, Tự thuật cảnh Hương giang buổi chiều, Ngày xuân đi chơi núi…) in trên Nam Phong tạp chí vào những năm 1918 và 1919 hoặc các “kim thời tiểu thuyết”, “Kim Tú Cầu”, “Hồng phấn tương tri” in dài kỳ trên Trung Bắc tân văn từ năm 1923, có thể coi bà là người mở đầu cho văn chương quốc ngữ xứ Huế. Bà từng làm trợ bút cho Trung Bắc tân văn (1919), giữ mục “Lời đàn bà” trên Thực nghiệp dân báo (1920), giữ mục “Văn đàn bà” trên Hữu thanh tạp chí (1922)… viết về giáo dục, gia đình, xã hội, dân chủ, dân sinh, nhất là đấu tranh nữ quyền chống ràng buộc của lễ giáo phong kiến chà đạp nhân phẩm nữ giới.

Tuổi Đinh Tỵ có nhà thơ Nguyễn Đình Thư (1917 – ?), một trong 46 tác giả được Hoài Thanh – Hoài Chân xếp vào đội ngũ Thi nhân Việt Nam (1942). Ông sinh ra ở làng quê nghèo Phước Yên, Quảng Thọ, Quảng Điền, học Trường Quốc Học Huế, tốt nghiệp bằng Thành chung, vào làm thư ký Kho bạc Huế. Năm 1946, tham gia kháng chiến chống Pháp, sau bị địch bắt, tra tấn dã man, nhưng ông không khai báo gì, nên bị địch thiêu chết. Ông là tác giả của tập thơ “Hương màu”. Nguyễn Đình Thư đến với phong trào thơ mới bằng sự trải nghiệm nhiều thể thơ nhưng thành công nhất là thơ lục bát truyền thống. Thơ cũng như con người, ông là kiểu người luôn e dè, kín đáo, ẩn chứa nỗi buồn của người sinh ra trong thời loạn lạc, kẻ thù ngoại xâm chà đạp… Tác giả Hoài Thanh khi bình về thơ ông, đã xem là “một chút tình thoáng qua, một đêm trăng lạnh, vài con bướm vẽ vành, một buổi chia ly, nỗi lòng người bị tình phụ, đi lại chỉ những buồn thương… Lòng thi nhân như một nguồn sầu vô hạn rưới khắp cảnh vật, bao phủ cả vừng trăng khuya”.

Cùng tuổi Tân Tỵ (1941) với nhà văn Tô Nhuận Vỹ, không thể không kể đến cái tên khó phai mờ trong lòng các thế hệ người đọc từ những năm tháng chiến tranh chống Mỹ đến bây giờ: Trần Vàng Sao (1941 – 2018). Nhà thơ Trần Vàng Sao, người có cuộc đời chìm nổi với văn chương, đã thổi hồn mình vào đời sống với một giọng thơ lạ lẫm, không vần điệu, trúc trắc như cuộc đời ông và miên man trôi như dòng sông quê nhà. Nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh ra và lớn lên ở Phú Thượng, tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh, rồi thoát ly lên chiến khu, công tác ở Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế. Sau năm 1975, ông công tác ở Phòng Thông tin Văn hóa TP. Huế cho đến lúc nghỉ hưu. Trần Vàng Sao viết nhiều, nhưng cho đến nay mới công bố hai tập thơ “Gọi tìm xác đồng đội” (2010) và “Bài thơ của một người yêu nước mình” (2016). Ông nổi tiếng với “Bài thơ của một người yêu nước mình” dài 155 câu, sáng tác ở chiến khu năm 1966; trong đó, ông trình bày diện mạo đất nước là của Nhân dân, với tình yêu nồng nàn và niềm tin “Và yêu tôi đã biết làm người/ Cứ trông đất nước mình thống nhất”.

Phạm Phước Châu