(GLO)- Lâu lắm tôi mới đọc một tiểu thuyết chiến tranh dữ dội và khốc liệt đến thế. Ấy là cuốn “Giờ thứ sáu tới giờ thứ chín” của nhà văn Nguyễn Một. Không gian trải dài từ một tỉnh miền Trung-nơi khốc liệt nhất của cuộc chiến tới một địa phương miền Đông Nam Bộ, cửa ngõ Sài Gòn. Thời gian là mấy năm trước 1975. Và nhân vật là những gia đình nông dân ở cái vùng khốc liệt kia với những người dân ở cái địa danh có tên Thủ Biên.
Tất nhiên, nhân vật chính vẫn là những người trẻ, những số phận sẽ bị chiến tranh quăng quật, chà xát, dẫu họ vẫn sống, vẫn yêu và vẫn tồn tại, dẫu mỗi người một số phận, một hoàn cảnh.
Nguyễn Một là người chứng kiến cuộc chiến tranh ấy, bởi anh sống ở cái vùng khốc liệt ấy, gia đình anh hứng chịu những gì tàn bạo nhất của chiến tranh. Bố mẹ bị chết bởi đạn trước mắt anh, khi anh là một cậu bé, đủ thấy trong mắt anh chiến tranh nó như thế nào. Anh phải theo ông cậu vào một vùng đất khác và lấy họ cậu, coi cậu như cha. Cứ như thấp thoáng hoàn cảnh cá nhân anh trong đấy, tất nhiên, đó cũng là hoàn cảnh của cả dân tộc một thời.
Một gia đình nông dân chỉ muốn yên ổn làm ăn, làm ruộng thôi, có đàn trâu thân thiện như người. Nhưng rồi chiến tranh, họ chia làm… 3 phe. Một phe muốn yên ổn làm ăn, kiên quyết bắt con trốn lính. Tất nhiên, đấy là “phe” bố mẹ. Còn mấy anh em, chia làm 2 phe. Họ không tự chia, mà thời thế bắt họ chia. Súng đạn, bom pháo… có nhiều trang đọc mà sởn người. Con người xuất hiện từ những đêm bom đạn hỗn độn như thế. Trong đó, đỉnh điểm là cái đêm 3 đứa con trai nhưng chia thành 2 phe trong gia đình ấy cùng bị chết trong một vụ đụng độ lớn. Và, cái cách hai phía tổ chức tang lễ cho quân nhân của mình cũng đầy ấn tượng.
Tác phẩm “Giờ thứ sáu tới giờ thứ chín” của nhà văn Nguyễn Một. Ảnh: V.C.H |
Với hơn 300 trang sách, Nguyễn Một dẫn ta đi trong những trạng huống hết sức hồi hộp, nhưng lạ là hồi hộp một cách điềm tĩnh. Những nhân vật với số phận vừa ly kỳ vừa bình thường, những tính cách va nhau chan chát nhưng lại chịu được nhau. Những bi kịch, có bi kịch tới thắt nghẹn… nhưng rồi đều được hóa giải, vừa bởi tài xếp đặt kỹ thuật của nhà văn và cũng vừa bởi cái bản chất nhân văn, cái nhìn luôn hướng về phía sáng của nhà văn. Nên kết thúc, đa phần họ trở về và gặp nhau. Cái kết thúc hết sức bất ngờ sau những dẫn dắt rất bí hiểm và mờ mịt.
Có sự gặp nhau viên mãn xa xót, có cuộc trùng phùng dở dang, tiếc nuối. Nhưng dẫu là chiến tranh khốc liệt, tàn bạo thế, vẫn có tình yêu đẹp, rất đẹp. Phía này hay phía kia, yêu nhau là đẹp. Cứ veo veo, cứ trong sáng thế, dẫu éo le, dẫu nghịch cảnh, dẫu khập khễnh, dẫu khó lý giải… nhưng cuối cùng, sự hợp lý được đưa ra để có một kết thúc có hậu. Cuộc tình Trang và Tâm mà không đẹp à, đẹp và khốc liệt. Khốc liệt cả khi họ tái hợp, trong nước mắt và đau đớn, nhưng đẹp. Đẹp tới quặn thắt. Cuộc tình Sơn Diễm không đẹp à? Dẫu nhiều lúc nó làm ta thót tim. Nó đẹp một cách… Nguyễn Một, tức lãng đãng, tức như không thật, tức nó không bình thường, tức nó quá đẹp, quá mỏng manh, quá yếu ớt giữa ầm ào chiến trận.
Nguyễn Một có một trí nhớ rất tài. Nhiều chi tiết từ thời 1975 được anh kể lại chính xác. Nhiều câu thơ của nhà thơ anh rất yêu Nguyễn Tất Nhiên được dẫn.
Tôi cố tình không tóm tắt tiểu thuyết này, bởi như thế khi đọc sẽ mất đi sự thú vị, đặc biệt là sự hồi hộp bởi cách dẫn chuyện rất khéo của tác giả. Tôi chỉ nhắc lại vài ấn tượng sau khi tôi buông sách, sau 2 ngày đọc và 1 đêm trằn trọc sau khi đọc xong. Tôi đã gần như không ngủ và thi thoảng có chợp mắt thì những ám ảnh của cuốn sách, ám ảnh chiến tranh lại hiện ra. Tôi và thế hệ tôi sinh ra và lớn lên trong chiến tranh. Tôi chứng kiến cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, sau 1975 về quê ở Huế chứng kiến chiến tranh cũng vừa qua, vẫn tươi rói những hoàn cảnh anh em bà con của mình vừa qua chiến tranh. Nguyễn Một trải qua chiến tranh ở phía Nam, là chính “nhân vật” của chiến tranh giáp mặt. Tôi đã về quê Nguyễn Một, đã nghe anh kể về cuộc đời kỳ lạ của mình, từ một cậu bé đang ngủ với mẹ chứng kiến mẹ bị bắn chết ngay trước mắt mình, tới khi vào ở với người cậu một thời cơ cực vì cậu rất nghèo, nhưng đã nuôi cháu nên người; cả khi đi làm giáo viên, anh vẫn phải tranh thủ đi… bán kem, rồi trở thành nhà báo, nhà văn như hiện nay.
Mãi tới những dòng cuối cùng của cuốn tiểu thuyết, tôi mới hiểu giờ thứ sáu và giờ thứ chín nó liên quan gì tới câu chuyện mà anh đặt làm tên tiểu thuyết. Nó là một câu trong kinh thánh: “Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu, tối tăm liền bao trùm cả mặt đất cho đến giờ thứ chín. Mặt trời trở nên u ám, màn trong đền thờ xé ra làm đôi ngay chính giữa…”.
Tôi đọc được sự điềm tĩnh, bao dung và cái nhìn nhân văn của Nguyễn Một về cuộc chiến, về con người từ tiểu thuyết này nên những tàn khốc, những bạo liệt, những xa xót, ê chề… cuối cùng cũng làm ta rung cảm, bớt đi ngột ngạt, dẫu có đoàn viên mà lại cũng có chia lìa. Nó như cái cách nhân vật chính Sơn nhận ra màu chiều huyền hoặc của dòng sông…