(MPI) – Phát biểu tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long lần thứ tư, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Đồng bằng sông Cửu Long đánh giá cao Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã khẩn trương phối hợp chặt chẽ, kịp thời với Văn phòng Chính phủ, tỉnh Cà Mau và các bộ, ngành, địa phương tổ chức chu đáo cho Hội nghị quan trọng này. Đồng thời đánh giá cao ý kiến phát biểu của các đại biểu.
Tham dự Hội nghị có Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Trần Duy Đông cùng đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành Trung ương và lãnh đạo các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Hội nghị đã nghe báo cáo về 5 nội dung quan trọng, gồm: Báo cáo sơ kết hai năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về phương hướng phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được ban hành, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 về chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW; Báo cáo tình hình triển khai Quy hoạch vùng Đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Báo cáo về cơ chế, chính sách đặc thù Vùng; Tiến độ triển khai một số dự án liên Vùng và các giải pháp ứng phó để phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái phát biểu. Ảnh: Chinhphu.vn |
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, vùng Đồng bằng sông Cửu Long là vùng đầu tiên trong sáu vùng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch vùng và Ban hành Kế hoạch thực hiện quy hoạch. Đến nay, 13/13 tỉnh, thành phố thuộc Vùng đã được phê duyệt quy hoạch tỉnh theo Luật Quy hoạch và hoàn thành tổ chức công bố quy hoạch.
Đây cũng là vùng đầu tiên được Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Cùng với việc ban hành quy hoạch và Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị là điều kiện thuận lợi để triển khai các chủ trương, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Vùng cũng như các địa phương trong Vùng,
Qua 2 năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Chính phủ về phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long, mặc dù nền kinh tế trong nước phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, hậu quả từ đại dịch COVID-19 kéo dài; kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm, lạm phát ở mức cao; giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh; thiên tai, biến đổi khí hậu gây hậu quả rất nghiêm trọng, tác động lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và đời sống người dân nhưng tình hình phát triển kinh tế – xã hội của Vùng có nhiều kết quả khả quan, nhiều chỉ tiêu phát triển kinh tế – xã hội có chuyển biến tích cực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2023 là 6,37%, cao thứ 2/6 vùng trên cả nước; thu nhập bình quân đầu người tăng 1,6 lần so năm 2020, đạt 72,3 triệu đồng/người/năm.
Một số công trình quan trọng, trọng điểm đã hoàn thành và đưa vào sử dụng như tuyến cao tốc Mỹ Thuận – Cần Thơ; Cầu Mỹ Thuận 2… Nhiều công trình, dự án quan trọng về lĩnh vực giao thông, thủy lợi, năng lượng, du lịch, hỗ trợ phát triển nông nghiệp đang trong quá trình thực hiện hoặc nghiên cứu, hoàn thiện thủ tục chuẩn bị đầu tư.
Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao được quan tâm tổ chức nhiều hơn tạo không khí vui tươi cho nhân dân. Công tác an sinh xã hội được quan tâm. Quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Chủ quyền biên giới quốc gia được giữ vững.
Theo Phó Thủ tướng Lê Minh Khái nhấn mạnh, bên cạnh những kết quả đạt được vùng Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn những tồn tại, hạn chế, khó khăn, thách thức như, kinh tế của Vùng tăng trưởng khá nhưng còn chưa thực sự bền vững, quy mô còn rất khiêm tốn (chỉ chiếm 12% quy mô GDP cả nước). Tăng trưởng kinh tế tại một số địa phương còn chậm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đạt yêu cầu.
Bên cạnh đó, hạ tầng kinh tế – xã hội của Vùng vẫn còn yếu, trong đó có hạ tầng giao thông, nông nghiệp, văn hóa, giáo dục…; thiếu nguồn lực để đầu tư; năng suất lao động đạt thấp (136 triệu đồng/lao động, đứng thứ 5/6 vùng, chỉ cao hơn vùng Tây Nguyên); hoạt động liên kết vùng chưa hiệu quả; một số thỏa thuận liên kết còn mang tính hình thức, chưa thực chất; ứng dụng khoa học và công nghệ còn chậm.
Môi trường đầu tư kinh doanh của một số địa phương trong Vùng còn chưa thực sự hấp dẫn, chưa thuận lợi để thu hút đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Chất lượng giáo dục và đào tạo của vùng tuy được nâng lên nhưng chưa đồng đều. Chất lượng nguồn nhân lực còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nguồn lực cho các cơ sở khám chữa bệnh công lập còn hạn chế, thiếu trang thiết bị y tế.
Quy hoạch vùng và quy hoạch ngành và quy hoạch tổng thể của các địa phương dựa trên lợi thế của từng vùng chưa đồng bộ. Hệ thống cơ sở dữ liệu vùng chưa được xây dựng đầy đủ…
Cùng với đó, vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện đang đối diện với nhiều thách thức. Trong đó có sự xuất hiện các công trình thủy điện ở thượng nguồn làm thay đổi dòng chảy, giảm đáng kể lượng phù sa, cát, suy giảm nguồn lợi thủy sản.
Đây cũng là vùng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng gây ra nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế – xã hội, ảnh hưởng đến sinh kế và đời sống của người dân. Vấn đề này được các đại biểu nêu rất ro. Thời gian qua, các đợt xâm nhập mặn, triều cường, gây khó khăn cho Vùng và các địa phương, đặc biệt là về nguồn nước, nước ngọt, nước cho sinh hoạt, sản xuất.
Do đó, để phát triển vùng Đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái đề nghị các bộ, địa phương cần đề ra các giải pháp phù hợp với từng thời điểm để đón nhận thời cơ mới, vận hội mới nhằm phấn đấu đạt kết quả cao nhất về phát triển phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển các ngành, lĩnh vực nói riêng. Từng bước cụ thể hóa tư duy mới, tầm nhìn mới tại Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đất nước giai đoạn 2021-2030 và các định hướng, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước. Từ đó mở ra các cơ hội phát triển mới và định hình các giá trị cho toàn vùng, phát huy được tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh sẵn có của các lĩnh vực, khu vực, địa phương và tháo gỡ, hóa giải những hạn chế, yếu kém, mâu thuẫn, thách thức, khó khăn.
Phó Thủ tướng cũng nhấn mạnh đến quả phát triển kinh tế – xã hội của cả nước gắn với phát triển Vùng theo tinh thần chỉ đạo của Trung ương, của Chính phủ, Quốc hội để đạt kết quả phát triển kinh tế – xã hội năm 2024. Đồng thời cho rằng, 6 tháng còn lại của năm 2024, cũng như thời gian còn lại của nhiệm kỳ, cả nước nói chung cũng như vùng Đồng bằng sông Cửu Long phải tiếp tục nỗ lực, thực hiện các giải pháp để góp sức chung cùng với cả nước đưa tăng trưởng kinh tế cao hơn nữa, hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cũng nhấn mạnh đến một số nội dung trọng, các giải pháp trong thời gian tới đối với vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Theo đó, cần quán triệt nghiêm túc, thực hiện quyết liệt, hiệu quả, thực chất các nhiệm vụ, giải pháp đề ra nhằm phát triển nhanh và bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ; các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch do Thủ tướng Chính phủ ban hành, đặc biệt là Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 78/NQ-CP của Chính phủ; Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu; Quyết định số 287/QĐ-TTg của Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 324/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long …
Tập trung cơ cấu lại các ngành kinh tế theo hướng hiện đại, ưu tiên phát triển các ngành, lĩnh vực có thế mạnh như phát triển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, sinh thái, bền vững gắn với các sản phẩm trọng tâm của vùng là thủy sản, trái cây và lúa gạo gắn với các cụm ngành nông, lâm, thủy sản, các trung tâm đầu mối.
Tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ. Phát triển công nghiệp xanh, năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nhất là điện gió, điện mặt trời gắn với bảo vệ rừng và bờ biển.
Phát triển kinh tế biển, trong đó chú trọng phát triển du lịch, dịch vụ biển, kinh tế hàng hải, khai thác dầu khí và năng lượng tái tạo, nuôi trồng và khai thác hải sản xa bờ, các khu kinh tế, khu công nghiệp ven biển, tái tạo nguồn lợi thủy sản và bảo vệ nguồn đa dạng sinh học biển.
Đồng thời, ưu tiên đầu tư, đẩy nhanh các dự án động lực, trọng điểm, quan trọng có tính lan tỏa lớn, có tính liên kết vùng, liên tỉnh để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của vùng như dự án xây dựng cao tốc Châu Đốc – Cần Thơ – Sóc Trăng giai đoạn 1, dự án đường bộ cao tốc Cao Lãnh – An Hữu giai đoạn 1, cao tốc Mỹ An – Cao Lãnh, dự án xây dựng đường bộ cao tốc Bắc – Nam phía Đông, dự án đầu tư xây dựng cảng biển Trần Đề, Hòn Khoai…
Đối với các dự án cao tốc có vướng mắc về giải phòng mặt bằng, vật liệu cát đắp, đề nghị các bộ, ngành, UBND tỉnh có dự án đi qua tiếp tục tháo gỡ khó khăn vướng mắc liên quan đến giải phóng mặt bằng và thiếu vật liệu cát đắp nền để đảm bảo tiến độ cho các công trình này.
Tăng cường quản lý và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên, nhất là đất đai và tài nguyên nước; bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với thiên tai và biến đổi khí hậu, coi đây là mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng, trong xây dựng, ban hành các cơ chế, chính sách phát triển vùng.
Đẩy mạnh đầu tư xây dựng hạ tầng thủy lợi, thoát lũ, trữ – chuyển nước ngọt, hệ thống quản lý và kiểm soát xâm nhập mặn nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp ứng phó với biến đổi khí hậu và tác động đến từ sự thay đổi nguồn nước thượng lưu sông Mê Kông. Xử lý sạt lở bờ sông và củng cố đê biển. Đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng các trung tâm đầu mối về nông nghiệp tại các tỉnh, nhất là trung tâm đầu mối tổng hợp tại Cần Thơ.
Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản thiên nhiên và văn hóa – lịch sử, văn hóa sông nước, miệt vườn, văn hóa các dân tộc. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn nhân lực số gắn với ứng dụng và phát triển khoa học – công nghệ. Thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, nhất là chính sách ưu đãi người có công, giảm nghèo, trợ giúp xã hội. Kết hợp phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, xây dựng nông thôn mới giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, bảo đảm an sinh xã hội.
Phó Thủ tướng giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư sớm nghiên cứu tiêu chí, nguyên tắc xây dựng các dự án trọng điểm của vùng và đưa vào kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2026-2030 để bố trí nguồn lực thực hiện.
Về kế hoạch triển khai kế hoạch điều phối vùng, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn thiện trên cơ sở ý kiến đóng góp của các Bộ, ngành, địa phương trên tinh thần các nội dung điều phối phải thực chất, hiệu quả, các nhiệm vụ phù hợp triển khai trong năm 2024 sát với thực tiễn và khả thi.
Đồng thời đề nghị các đồng chí trong Hội đồng điều phối vùng bám sát các nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng điều phối vùng và quy chế hoạt động của Hội đồng điều phối vùng, có trách nhiệm triển khai thực hiện các nhiệm vụ được phân công, hoàn thành nhiệm vụ với trách nhiệm cao nhất, báo cáo kết quả theo quy định./.
Nguồn: https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2024-7-3/Hoi-nghi-Hoi-dong-dieu-phoi-vung-Dong-bang-song-Cu6w85cc.aspx