Nghề làm Giấy dó của người Mường ở huyện Lương Sơn đã tồn tại với lịch sử hàng trăm năm nay, để tạo ra Giấy dó, người nghệ nhân phải tốn rất nhiều công sức và thời gian mới hoàn thành được. Với niềm đam mê nghề truyền thống những nghệ nhân ở xóm Suối Cỏ, xã Cao Sơn, huyện Lương Sơn vẫn tiếp tục gìn giữ, phát triển nghề của cha ông để lại.
Nghệ nhân Hoàng Thị Hậu với Kỹ thuật xeo giấy thủ công
Ở xóm Suối Cỏ, nghề làm Giấy dó của người Mường nơi đây tuy chỉ mới thành lập tổ sản xuất, không phát triển thành một làng nghề truyền thống, nhưng đã và đang tồn tại như một minh chứng cho đôi bàn tay khéo léo, tài hoa và những giá trị văn hoá lâu đời của người Mường.
Theo Nghệ nhân Nguyễn Văn Chúc là Tổ trưởng tổ sản xuất Giấy dó Suối Cỏ cho: Nghề làm Giấy dó đã tồn tại từ hàng trăm năm về trước. Thời đó, Giấy dó được sử dụng trong các nghi lễ truyền thống như: Tết, ma chay, cưới hỏi. Mỗi tờ giấy chính là nguyên liệu để các nghệ nhân thể hiện các tác phẩm tranh vẽ tín ngưỡng phục vụ thờ cúng, tục treo tranh, hay sử dụng làm giấy sắc phong trong các lễ hội cấp sắc, hội xuân… Theo lời kể của ông Chúc, xưa kia Giấy dó được đóng thành quyển để viết chữ Mường. Trải qua bao thế hệ, những cuốn sách làm từ Giấy dó có thể đã rách nát bìa mà nét chữ vẫn không phai màu. Tuy nhiên, theo thời gian và sự phát triển không ngừng của xã hội, những nét văn hóa dân tộc đặc sắc cùng nghề truyền thống ít nhiều bị mai một dần. Giờ đây, cả xóm chỉ còn 5 gia đình duy trì, phát triển nghề qua việc thành lập tổ sản xuất. Ông Chúc cho biết thêm “Cá nhân tôi thấy Giấy dó là loại giấy rất đặc biệt. Vì vậy, quá trình sản xuất rất cầu kỳ. Để làm được Giấy dó phải trải qua 35 công đoạn, từ việc lấy nguyên liệu, ngâm ủ… đến làm ra sản phẩm cũng phải mất nửa tháng trời”.
Giấy dó được làm từ những nguyên liệu tự nhiên sẵn có như: Cây dó và Cây dướng (người Mường còn gọi là Cây ráng). Theo thời gian, dụng cụ làm Giấy dó được cải tiến dần để rút ngắn công đoạn sản xuất. Các dụng cụ chủ yếu là khuôn làm bằng vải, có nhiều kích cỡ khác nhau (30cm x 40cm; 60cm x 80cm; 60cm x 120cm), nồi nấu chất liệu giấy, máy khuấy nguyên liệu, tàu ngâm lề và bể chứa… Hàng năm cứ đến Tết Nguyên đán, các gia đình nghệ nhân như ông Nguyễn Văn Chúc lại tất bật chuẩn bị nguyên liệu làm Giấy dó theo đơn đặt hàng của du khách. Công việc tuy vất vả, nhưng với nhận thức cần giữ gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc, ông vẫn luôn giữ ngọn lửa đam mê duy trì hoạt động sản xuất, để giới thiệu sản phẩm Giấy dó đến với du khách thập phương tránh khỏi mai một.
Nghệ nhân Hoàng Thị Hậu, xóm Suối Cỏ, xã Cao Sơn cho biết: “Khi Cây dướng cao chừng 3 mét, chúng tôi chặt về và loại bỏ lá, cành, vỏ ngoài. Sau đó, tôi cắt phần vỏ giữa thành từng đoạn ngắn đem luộc. Bước tiếp theo, tôi ngâm vỏ cây với vôi và đưa vào máy khuấy thành bột nhuyễn, đem lọc lấy nước trong (còn được gọi là lề) rồi cho vào đoạn ngâm lề trong tàu và tạo giấy. Bình quân cứ 10 kg vỏ tươi hoặc 4 kg vỏ khô nguyên liệu sẽ làm ra khoảng 120 tờ giấy”.
Từ bàn tay khéo léo của người Mường, với những bí quyết riêng Giấy dó tuy mỏng manh nhưng dai và bền hơn giấy sản xuất công nghiệp, nếu được bảo quản ở nơi khô ráo, giấy có thể để vài chục năm. Hiện nay Giấy dó không đơn thuần là nguyên liệu để vẽ tranh, viết chữ; Giấy dó dưới sự sáng tạo của các nghệ nhân đã trở thành sản phẩm phục vụ cho phát triển du lịch ở nhiều huyện của tỉnh Hoà Bình. Bên cạnh đó, giấy dó của người Mường Suối Cỏ còn được các công ty lữ hành, du lịch khu vực miền trung, miền nam như: Huế, Hội An, Đà Nẵng, Lâm Đồng… tin tưởng lựa chọn đến tham quan, trải nghiệm. Ngoài ra, giấy dó cũng được các nghệ nhân xứ Mường Hoà Bình tạo nên những bức tranh dân gian đặc sắc, trở thành quà tặng cho bạn bè người thân vào các ngày Lễ, Tết. Đặc biệt, Giấy dó còn được các thầy đồ dùng viết bức thư pháp đẹp, mang đầy ý nghĩa dành tặng cho những người xin chữ với mong muốn cầu chúc cho gia đình 1 năm mới may mắn, bình an, tài lộc, vạn sự hanh thông./.