Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề dân tộc, công tác dân tộc (CTDT) và đồng bào các dân tộc Việt Nam. Tình cảm và tấm lòng của Người có sức động viên to lớn đối với đồng bào các dân tộc. Và chính Người cũng đã nêu một tấm gương sáng về đoàn kết, giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS).
Đồng chí Phạm Minh
Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ trải nghiệm văn hóa Chiêng
Mường Hòa Bình tại lễ khởi công cao tốc Hòa Bình – Mộc Châu. Ảnh: P.V
Trong tư tưởng của Người luôn nhất quán quan điểm rõ ràng,
trước sau như một: “Nước ta là một đất nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các
dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các
dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt với nhau trên một lãnh thổ chung
và trải qua lịch sử lâu đời cùng nhau lao động và đấu tranh để xây dựng Tổ quốc
tươi đẹp… Chính sách dân tộc (CSDT) của chúng ta là nhằm thực hiện sự bình đẳng
giúp nhau giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Đảng và Nhà nước ta đã cụ thể hóa tư tưởng của Người trong
hoạch định chính sách và thực thi chính sách về CTDT phù hợp ở từng thời kỳ,
giai đoạn; ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm phát triển kinh tế, đảm
bảo an sinh xã hội; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc. Đến Đại
hội XIII năm 2021, Đảng ta đã khẳng định chủ trương về vấn đề dân tộc, CTDT cho
giai đoạn 2021 – 2025, đó là: “Tập trung hoàn thiện và triển khai thực hiện tốt
các CSDT trên tất cả các lĩnh vực, nhất là các chính sách đặc thù giải quyết
những khó khăn của ĐBDTTS. Tạo sinh kế, việc làm, định canh, định cư vững chắc
cho ĐBDTTS, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tập trung triển khai
hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) phát triển KT-XH vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và miền núi (ĐBDTTS &MN) giai đoạn 2021 – 2030. Bảo vệ và
phát triển dân số các dân tộc thiểu số (DTTS) có dưới 10.000 người, đặc biệt là
những DTTS có nguy cơ suy giảm giống nòi”. Đặc biệt, trong giai đoạn 2019 – 2024,
nhiều CSDT, phát triển cơ sở hạ tầng, giảm nghèo bền vững, xây dựng nông thôn
mới, các CTMTQG đồng loạt được triển khai nhằm cải thiện đời sống người dân
vùng ĐBDTTS&MN.
Hoà Bình có bề dày lịch sử, truyền thống văn hóa và giàu
truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường; là tỉnh có đông ĐBDTTS cùng chung
sống, chiếm 74,31% dân số, trong đó có nhiều DTTS cư trú lâu đời, sinh sống tập
trung theo cộng đồng ở các xã, thị trấn thuộc vùng DTTS&MN, thôn đặc biệt
khó khăn. Qua các thời kỳ, đồng bào các dân tộc tỉnh đã đoàn kết, “một lòng một
dạ” tin theo Đảng, Bác Hồ và có nhiều cống hiến cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hòa Bình có Chiến khu Mường Khói, huyện Lạc Sơn và
3 khu căn cứ cách mạng (Thạch Yên huyện Cao Phong, Mường Diềm và Giằng Xèo
huyện Đà Bắc), đã nuôi dưỡng cán bộ tiền khởi nghĩa trong quá trình hoạt động
cách mạng, đều thuộc vùng ĐBDTTS. Nhiều người con ưu tú của đồng bào các DTTS
của tỉnh đã chiến đấu hy sinh anh dũng, nhiều cán bộ, chiến sỹ, thương bệnh
binh, gia đình liệt sỹ; một số phong trào cách mạng đã được lịch sử ghi nhận và
được Đảng, Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền địa phương công nhận và trao tặng các
danh hiệu cao quý.
Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh đã lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt sâu
sắc quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước về CTDT, đổi mới công tác vận động
Nhân dân và thực hiện tốt CSDT của các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể và sự phấn
đấu vươn lên của đồng bào các DTTS. Đến nay, tỉnh ta đã đạt được nhiều thành
tựu trong tất cả các lĩnh vực phát triển KT-XH, đặc biệt là trong CTDT, giảm
nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới, xây dựng đội ngũ cán bộ là người
DTTS. Tình hình KT-XH, an ninh – quốc phòng, củng cố, xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị có nhiều chuyển biến tích cực; diện mạo nông thôn vùng ĐBDTTS trên
địa bàn tỉnh có nhiều khởi sắc.
Hệ thống kết cấu hạ tầng vùng DTTS được quan tâm đầu tư cơ
bản đáp ứng nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống của Nhân dân. Đến nay, tỷ lệ
xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông đạt 100%; tỷ lệ
thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa đạt 95,7%; tỷ lệ người dân nông
thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95,9%; tỷ lệ dân cư thành thị được sử
dụng nước sạch đạt 96%; tỷ lệ xã có điện lưới quốc gia đạt 100%…
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm chăm lo và có
nhiều tiến bộ; hệ thống trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được củng cố,
mở rộng và từng bước nâng cao chất
lượng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu học tập của con em ĐBDTTS. Các chính
sách an sinh xã hội được quan tâm thực hiện; công tác chăm sóc sức khỏe Nhân
dân có nhiều chuyển biến tích cực; hệ thống bệnh viện tuyến tỉnh, huyện, phòng
khám đa khoa khu vực và trạm y tế xã được đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị
đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của
người dân.
Việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ
viết, phong tục, tập quán, tín ngưỡng truyền thống tốt đẹp của đồng bào được
coi trọng. Nhiều lễ hội truyền thống đã được phục dựng; gìn giữ được nhiều mô
hình làng, bản văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch. Giá trị văn hóa
đặc sắc của các dân tộc từng bước trở thành nguồn lực cho phát triển KT-XH,
nhất là phát triển du lịch; bản sắc truyền thống tốt đẹp của dân tộc cùng với
các di tích, di chỉ khảo cổ, hiện vật của nền Văn hóa Hòa Bình là điều kiện cốt
lõi để tỉnh xây dựng môi trường du lịch bền vững, từng bước tạo ra các sản phẩm
du lịch độc đáo, hấp dẫn, nhằm nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh cho
du lịch Hòa Bình thời gian tới.
Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán
bộ người DTTS được chú trọng, nhiều cán bộ người DTTS của tỉnh đã và đang giữ
các chức vụ lãnh đạo ở Trung ương và lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị
từ tỉnh đến cơ sở. Đến nay hầu hết các cơ quan từ tỉnh đến cơ sở đều có cán bộ
lãnh đạo chủ chốt là người DTTS.
Các đồng chí: Đỗ Văn
Chiến, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương
MTTQ Việt Nam; Hầu A Lềnh, Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Ủy
ban Dân tộc; lãnh đạo các bộ, ngành và tỉnh Hòa Bình khởi công xây dựng nhà cho
hộ khó khăn tại lễ phát động xóa nhà tạm, nhàdột nát được tổ chức tại huyện Đà Bắc, tháng 4/2024. Ảnh: H.D.
Bên cạnh những thành tích, CTDT của tỉnh vẫn còn khó khăn,
hạn chế cần tập trung giải quyết trong thời gian tới, đó là: Tỷ lệ hộ nghèo, hộ
cận nghèo vùng ĐBDTTS &MN vẫn còn cao và có sự chênh lệch với khu vực
khác; đời sống vật chất, tinh thần của
đồng bào tuy đã được cải thiện nhưng vẫn còn nhiều khó khăn. Thu nhập của
ĐBDTTS ở nông thôn còn thấp so với mặt bằng chung của tỉnh. Một số tập tục lạc
hậu chưa được cải tạo triệt để; kết cấu hạ tầng nông thôn đã được đầu tư xây
dựng, song chưa đồng bộ, một số nơi đã xuống cấp, chưa đáp ứng nhu cầu phát
triển KT-XH…
Trong bối cảnh có nhiều thuận lợi và đan xen nhiều khó khăn, thách thức, để thực hiện có hiệu quả CTDT
trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị –
xã hội, đồng bào các DTTS trong tỉnh tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ
chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục triển khai tốt các chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước và của tỉnh về CTDT, trọng tâm là Kết luận số 65-KL/TW, ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị
về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa IX về CTDT trong tình hình mới, Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 30/7/2021 của
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh về lãnh đạo
phát triển KT-XH vùng ĐBDTTS&MN giai đoạn 2021-2030, Đề án Bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa dân tộc Mường và nền “Văn hóa Hòa Bình”, giai đoạn 2023 –
2030 nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệmcủa các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò, vị trí của CTDT, tầm
quan trọng của vùng ĐBDTTS và khu vực miền núi đối với sự phát triển toàn diện
của tỉnh.
Hai là, thực hiện tốt các chương trình, dự án, các cơ chế,
chính sách dành cho đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là 3 CTMTQG. Lồng ghép
có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ Trung ương với nguồn vốn địa phương và các
nguồn vốn khác. Huy động đa dạng các nguồn lực đầu tư để hoàn thiện kết cấu hạ
tầng KT-XH vùng miền núi; đẩy nhanh tiến độ thực hiện, đảm bảo chất lượng các
dự án phát triển hạ tầng, nhất là hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, thông
tin liên lạc, các công trình phục vụ nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực;
xây dựng các trạm theo dõi, cảnh báo thiên tai, nhất là lũ ống, lũ quét, sạt lở
đất để nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo sớm, phòng chống thiên tai, giảm nhẹ
thiệt hại và bảo đảm an toàn, ổn định cho vùng đồng bào dân tộc miền núi. Cải
thiện điều kiện sinh kế, đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuât để phát triển sản
xuất.
Ba là, rà soát, điều chỉnh, bổ sung, hoàn chỉnh và xây dựng
mới các quy hoạch vùng dân tộc miền núi, nhất là quy hoạch xây dựng nông thôn
mới, quy hoạch bố trí, sắp xếp dân cư,
bảo đảm phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh và kết nối đồng bộ với vùng phụ
cận, làm cơ sở để thu hút đầu tư, bố trí nguồn lực cho phát triển KT-XH và thực
hiện các mục tiêu chiến lược của CTDT trong thời kỳ mới.
Bốn là, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động hệ thống
chính trị ở cơ sở vùng đồng bào dân tộc. Quan tâm nâng cao chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức làm CTDT. Chú trọng công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên trong ĐBDTTS; phát huy vai trò
của già làng, trưởng bản, người có uy tín; xây dựng khối đại đoàn kết các dân
tộc, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong vùng đồng bào dân tộc và
các tầng lớp Nhân dân.
Năm là, tiếp tục thực hiện hiệu quả Chỉ thị số 05-CT/TW của
Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh” gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, khóa
XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Chú trọng nhân rộng các mô hình, điển hình
tiên tiến; làm tốt công tác nắm tình hình và chủ động kịp thời giải quyết những
vấn đề phát sinh có liên quan đến an ninh trật tự, nhất là việc phòng ngừa, đấu
tranh ngăn chặn những hoạt động lợi dụng dân tộc, tôn giáo để phá hoại khối đại
đoàn kết toàn dân, kiên quyết không để hình thành các “điểm nóng” về dân tộc,
tôn giáo trên địa bàn toàn tỉnh.
Sáu là, đổi mới nội dung, phương thức triển khai, thực hiện
CTDT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Thực hiện tốt quy chế
dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để Nhân dân tích cực, chủ động tham gia xây
dựng, thực hiện và giám sát việc thực hiện các chính sách, chương trình, kế
hoạch phát triển KT-XH, an ninh, quốc phòng ở địa phương.
Bảy là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, định kỳ sơ
kết, tổng kết, kịp thời biểu dương, khen thưởng những điển hình tiên tiến,
những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc; phổ biến, giới thiệu các mô hình
tốt, kinh nghiệm hay để áp dụng và nhân rộng trên địa bàn các xã, thôn vùng
ĐBDTTS&MN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Lai hay Ê đê, Xê đăng hay Ba Na và các DTTS khác, đều là con cháu
Việt Nam, đều là anh em ruột thịt, chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng
nhau, no đói có nhau. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng đoàn kết của
chúng ta không bao giờ giảm bớt”. Thực hiện lời dạy của Bác, chúng ta tin tưởng
rằng, đồng bào các DTTS đang sinh sống trên địa bàn tỉnh nhà luôn phát huy tinh
thần đoàn kết, tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau; phát huy tinh thần tự
lực, tự cường, tự tôn dân tộc, tiếp tục vượt qua mọi khó khăn, thách thức, ra
sức thi đua lao động, sản xuất để thoát nghèo, vươn lên làm giàu chính đáng,
góp phần xây dựng tỉnh Hoà Bình ngày càng phồn thịnh.
Nguồn: http://www.baohoabinh.com.vn/11/195460/Phat-huy-truyen-thong,-suc-manh-dai-doan-ket-cac-dan-toc.htm