Hà Nội trong ngày Ủy ban Quân chính ra mắt nhân dân Thủ đô (10-1954). (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Nhận diện được kết quả đạt được cũng như tồn tại và nhất là thách thức trong giai đoạn tới luôn là yêu cầu cần thiết để hướng tới Thủ đô Hà Nội là Thành phố “Văn hiến – văn minh – hiện đại”, là trung tâm, động lực phát triển vùng và cả nước, Thành phố kết nối toàn cầu, có trình độ phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới, bảo đảm quốc phòng, giữ vững an ninh, an toàn xã hội để xây dựng, phát triển Thủ đô bền vững.
Về quy mô Thủ đô, khi tiếp quản năm 1954, Hà Nội chỉ có diện tích 152 km2 thì qua 4 lần được điều chỉnh địa giới, đến nay, đã có diện tích 3.344 km (diện tích đô thị lớn nhất cả nước).
Mỗi giai đoạn phát triển, diện mạo Thủ đô đều có những dấu ấn đặc thù. Từ những ngày đầu hòa bình, việc giải quyết nơi ăn ở cho cán bộ, viên chức, cho người lao động đã được quan tâm. Gần 200 khu, xóm lao động với gần 2 vạn hộ dân sống trong điều kiện chật hẹp, thiếu vệ sinh đã được cải tạo, sửa chữa. Nhiều khu ở mới thấp tầng theo mô hình đơn vị ở Xã hội chủ nghĩa đã được xây dựng như Phúc Xá, Mai Hương, Chương Dương…, thể hiện tính ưu việt với người lao động, với công nhân – viên chức.
Cùng với nhà ở là các công trình công cộng như câu lạc bộ Thống Nhất, các bãi chiếu bóng ngoài trời: Lương Yên, Khương Thượng, Cầu Giấy…, cải tạo bệnh viện Việt – Đức. Điểm nổi bật là 1957, chúng ta đã thành lập, xây dựng 5 trường đại học: Tổng hợp, sư phạm, Y dược, Bách Khoa, Nông lâm, dấu ấn minh chứng Hà Nội là trung tâm văn hóa – giáo dục, động lực cho phát triển các giai đoạn tiếp theo.
Ngay từ đầu Kế hoạch 5 năm (1960 – 1965) đã hình thành mô hình không gian đơn vị ở mới là khu nhà ở Kim Liên 5 tầng đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Cũng vào thời kỳ này, nhiều khu vực trong nội đô lịch sử đã xây dựng các khu ở tạo diện mạo mới: Thọ Lão, Quỳnh Lôi. Khu ở Nguyễn Công Trứ được triển khai khá hoàn chỉnh trên khu đất 6ha (đường Nguyễn Công Trứ), vốn là một nghĩa trang ngoại kiều mới được giải tỏa, chỉ giữ lại duy nhất một kiến trúc kiên cố là nhà quàn, mãi sau này mới dùng làm nơi sinh hoạt câu lạc bộ. Trong khu bố trí hai dãy nhà ở năm tầng, trong đó hai nhà làm nơi ở tập thể cho cán bộ độc thân. Toàn khu có nhà mẫu giáo, nhà trẻ, có cửa hàng bách hóa. Giữa các khối nhà có cây xanh, sân chơi, nơi thu rác.
Khu nhà ở Văn Chương, xây dựng năm 1963, được bố cục bởi những nhóm nhà ở hai tầng mái ngói, gắn với kiến trúc truyền thống là dấu ấn ở nội đô. Nhiều công trình công cộng được xây dựng, tiêu biểu như: Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, Đại học Thương mại, Học viện Thủy lợi, Cục Thống kê Trung ương, trụ sở Tổng cục Lâm nghiệp, cải tạo Bách hóa Tổng hợp, trụ sở Ủy ban trị thủy sông Hồng, Nhà sàn Bác Hồ, lễ đài Ba Đình, Công viên Thống Nhất, Bệnh viện Mắt Trung ương; Hội trường Ba Đình, Nhà hát Quân đội, Bệnh viện đa khoa Gia Lâm, trụ sở Bộ Công nghiệp nặng, Viện Thí nghiệm vật liệu xây dựng ở Nghĩa Đô, Sân vận động Hàng Đẫy…
Công trình kiến trúc ở giai đoạn này nói chung quy mô vừa phải, chủ yếu với phong cách tiền hiện đại, đa phần có mặt bằng đối xứng ngay ngắn. Mặt nhà với nhiều tìm tòi trong hình khối và tương quan tỷ lệ, khai thác những giải pháp và đường nét gần gũi với văn hóa dân tộc.
Năm 1961, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội xây dựng với viện trợ của Liên Xô, là công trình rõ nét của kiến trúc hiện đại, được Việt Nam hóa.
Một công trình viện trợ khác là Viện Khoa học Việt Nam được xây dựng ở Nghĩa Đô, dấu ấn kiến trúc hiện đại lan tỏa ra ngoài nội đô.
Ngay sau khi giải phóng Thủ đô, Hà Nội bắt tay xây dựng Nhà máy Diêm, Nhà máy gỗ dán Cầu Đuống. Tiếp theo là mở rộng Nhà máy điện Yên Phụ, Nhà máy xay Lương Yên, Nhà máy cao su, Nhà máy xà phòng, Nhà máy thuốc lá, văn phòng phẩm Hồng Hà, Xí nghiệp dược phẩm II….
Trong kế hoạch 5 năm (1960 – 1965), chúng ta đã xây dựng Nhà máy Bóng đèn phích nước Rạng Đông, Dệt 8/3, Nhà máy đông lạnh Cầu Diễn, điện cơ Thống Nhất, bê tông Chèm, Nhà máy in Tiến Bộ, Phân lân Văn Điển, Nhà máy Pin, dệt kim Đông Xuân, xí nghiệp Dược phẩm II… Trên địa bàn thành phố có 134 cơ sở công nghiệp (79 của Trung ương và 55 của địa phương), phần lớn được sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa.
Hàng loạt xí nghiệp tư nhân được chuyển sang hợp doanh và hoạt động hiệu quả như: Điện Thông, Thủy tinh Thanh Đức, Dệt Cự Doanh. Thành phố đã tổ chức những khu công nghiệp tập trung: Thượng Đình, Minh Khai, Văn Điển, Chèm, Cầu Đuống, Yên Viên, Đông Anh. Đến nay, nhìn lại về công nghiệp hóa, những kết quả trên là minh chứng tự hào về công nghiệp hóa, song cũng đang là thách thức cho diện mạo mới của nội đô Hà Nội.
Sau Kế hoạch 5 năm, Hà Nội đã tiên phong ứng dụng công nghệ mới trong kiến trúc nhà ở lắp ghép tấm như: Trương Định, Yên Lãng (2 tầng) và hàng loạt các khu ở 5 tầng tại Trung Tự, Khương Thượng, Giảng Võ, Vĩnh Hồ. Công trình có không gian kiến trúc nổi trội hơn cả là nhà ở khu ngoại giao đoàn Vạn Phúc (1967).
Nhìn tổng quan kiến trúc giai đoạn 1954 – 1986 ở Hà Nội là minh chứng cho thấy yếu tố tạo nên bản sắc đô thị gắn liền với tiến trình đô thị hóa được phát triển và kế thừa qua các thời kỳ.
Thành phố đang được kiến tạo nhiều động lực để diện mạo Thủ đô có bước đột phá. Ảnh: HNM
Giai đoạn 1986 đến nay là giai đoạn có nhiều dấu ấn mới về diện mạo đô thị, về kiến trúc cảnh quan. Trước hết phải kể đến các khu đô thị mới như: Linh Đàm, Trung Yên, Mỹ Đình, Trung Hòa Nhân Chính, Ciputra, Royal City, Gamuda, Times City… Kiến trúc hiện đại không chỉ hiện diện ở Nam sông Hồng mà đã sang Bắc sông Hồng (Long Biên, Đông Anh). Cấu trúc Hà Nội với mô hình chùm đô thị đã từng bước hiện diện.
Cùng với các khu đô thị là các công trình tầm vóc quốc gia đã được xây dựng như Bảo tàng Hà Nội (2010), tòa nhà Quốc hội (2014), tòa nhà Keangnam 72 tầng (2010), các khách sạn: Daewoo, Grand Plaza, tòa nhà Lotte Center 65 tầng (2015)… Để trở thành Hà Nội xanh, thành phố đã chú trọng đến xây dựng các công viên tầm vóc quốc gia như: Công viên Hòa Bình, Cầu Giấy, Yên Sở. Bên cạnh phát triển mới về diện mạo đô thị, thành phố đã quan tâm đến bảo tồn di sản đô thị, các công trình kiến trúc có giá trị (biệt thự, làng cổ, nhà ở có giá trị trong nội đô lịch sử).
Khó mà có thể liệt kê hết các không gian kiến trúc cảnh quan, các công trình kiến trúc hiện đại trong giai đoạn này, song có thể khẳng định, Hà Nội với diện mạo văn minh, hiện đại đang hiện hữu dần. Kết cấu hạ tầng được xây dựng hiện đại, đã sử dụng, khai thác tuyến đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông, các cầu vượt sông Hồng, biểu tượng mới của Hà Nội.
Về không gian kiến trúc, nếu trước 1954, công trình cao nhất là 7 tầng; trước năm 1986, công trình 11 tầng thì nay đã xây dựng công trình 74 tầng (Keang Nam), đang chuẩn bị xây dựng công trình 108 tầng.
Nhìn lại giai đoạn đã qua, chúng ta có thể tự hào về những gì diện mạo cảnh quan Hà Nội đạt được, góp phần tạo nên vai trò, vị thế mới của Thủ đô, phát huy được giá trị văn hóa lịch sử tích lũy qua hàng nghìn năm. Song, chúng ta cũng nhìn nhận được những tồn tại như chưa định hình được đặc thù kiến trúc Thủ đô, tái thiết, cải tạo đô thị còn chậm, chưa kiểm soát tốt việc tổ chức thực hiện theo quy hoạch…
Để giải quyết, Hà Nội đang song hành điều chỉnh Quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2045, tầm nhìn đến năm 2065 và lập Quy hoạch Thủ đô đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2050. Bên cạnh đó, Luật Thủ đô (sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua sẽ tạo động lực để diện mạo Thủ đô có bước đột phá. Hà Nội “văn hiến – văn minh – hiện đại – bền vững” sẽ từng bước hiện hữu, đáp ứng mong muốn của cả nước và bạn bè quốc tế.
Hanoimoi.vn
Nguồn: https://hanoimoi.vn/dien-mao-thu-do-ha-noi-sau-70-nam-giai-phong-tam-nhin-tuong-lai-680074.html