Quản lý hoạt động hệ thống giám sát tàu cá tại Chi cục Thủy sản tỉnh.
Người nông dân là trung tâm
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU và Đề án CĐS tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) đã ban hành Kế hoạch số 1150/KH-SNN với mục tiêu tổng quát là “Số hóa dữ liệu tiến đến CĐS toàn diện trong NN, nhằm nâng cao năng lực trong quản lý, điều hành của cơ quan nhà nước, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh NN của doanh nghiệp, người dân. Đồng thời, ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai và bảo vệ môi trường trong sản xuất NN”.
Giá trị của CĐS trong NN là giúp người nông dân tiếp cận, cập nhật tri thức mới, mở ra cách nghĩ mới, cách làm mới, cũng như tiếp cận với nguồn thông tin về dự báo, môi trường, thị trường. Đồng thời, tiêu thụ nông sản được giá hơn bằng việc đẩy mạnh hoạt động bán nông sản trên các sàn thương mại điện tử. Tuy nhiên, hiện nay là nhiều nông dân vẫn chưa hiểu thế nào là CĐS, không nắm được những việc cần phải làm để tiến hành CĐS. Một bộ phận cán bộ, quản lý ngành cũng chưa hiểu sâu về CĐS của ngành mình. Quy mô ứng dụng CĐS còn hạn chế, chưa đồng bộ.
Trong hệ sinh thái NN số, người nông dân nói riêng và yếu tố nguồn nhân lực nói chung giữ vai trò chủ đạo. Để CĐS ngành NN thành công, người nông dân phải được đặt ở vị trí trung tâm của quá trình này và phải thật sự làm chủ được công nghệ và ứng dụng được CNS cho quá trình sản xuất NN của mình. Cũng như chính những cán bộ ngành NN cần thật sự nắm vững các yếu tố CĐS của ngành mình.
Tập trung các giải pháp
Để CĐS trong ngành NN&PTNT có kết quả, cần tiếp tục hoàn thiện các chủ trương, chính sách xây dựng cơ chế thúc đẩy CĐS ngành NN, gắn với đẩy mạnh việc tuyên truyền, hướng dẫn, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ người dân đến với công nghệ. Theo Giám đốc Sở NN&PTNT Đoàn Văn Đảnh, trong năm 2023, ngành chú trọng đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao nhận thức, kỹ năng số, tăng cường tương tác với người dân, doanh nghiệp. Qua đó, nâng cao nhận thức, hình thành văn hóa số cho người dân, tạo điều kiện tiếp cận các dịch vụ chính quyền số; xây dựng và ứng dụng các nền tảng đào tạo kỹ năng số cho người dân.
Mặt khác, cùng với vai trò của cơ quan quản lý nhà nước, người dân cần chủ động tiếp cận CNS cũng như được hướng dẫn ứng dụng CNS vào quy trình sản xuất, tiêu thụ nông sản của mình. Ứng dụng CNS để tự động hóa các quy trình sản xuất, kinh doanh; quản lý, giám sát nguồn gốc, chuỗi cung ứng sản phẩm, bảo đảm nhanh chóng, minh bạch, chính xác, an toàn, vệ sinh thực phẩm. Mỗi người dân cần được định hướng đào tạo ứng dụng CNS trong sản xuất, cung cấp, phân cấp, dự báo (giá, thời vụ…) nông sản, đẩy mạnh phát triển thương mại điện tử trong NN. Một giải pháp khác là thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nguồn trí thức trẻ về hoạt động trong lĩnh vực NN không đơn thuần là trực tiếp tham gia sản xuất mà còn trong công tác quản lý, điều hành và phân phối lao động ở khu vực nông thôn.
Dữ liệu là yếu tố quan trọng trong CĐS. Để hệ sinh thái số về NN được hoàn thiện cần phát triển trên một nền tảng vững chắc là hệ thống dữ liệu. Đó là hệ thống dữ liệu lớn của ngành về đất đai, cây trồng, vật nuôi, thủy sản; thiết lập mạng lưới quan sát, giám sát tích hợp trên không và mặt đất phục vụ các hoạt động NN, thông tin về môi trường, thời tiết, chất lượng đất đai…
Hệ thống dữ liệu của ngành NN còn là về: quản lý về địa lý, bản đồ chuyên đề về NN, quản lý rừng, thủy lợi, môi trường nước trong trồng trọt và thủy sản, quản lý tình hình diễn biến sâu, bệnh hại cũng như quản lý khai thác của các tàu cá, quản lý chuỗi cung ứng vật tư đầu vào đầu ra cho ngành NN, gồm: quản lý việc đăng ký, thông tin của các hợp tác xã, DN thu mua, chế biến và phân phối các sản phẩm NN; thu thập, quản lý và khai thác thông tin nhu cầu, xu hướng và giá cả thị trường nông sản; quản lý an toàn chất lượng sản phẩm NN và truy xuất nguồn gốc nông sản.
Ngành sẽ tiếp tục xây dựng các mô hình triển khai thí điểm ứng dụng CNS trong NN như: thiết bị giám sát mặt đất, theo dõi chất lượng nước mặt, diễn biến xâm nhập mặn, dự báo và cảnh báo trên diện rộng, dữ liệu cập nhật liên tục 15 phút/lần thông qua ứng dụng trên điện thoại di động, mạng lưới giám sát tình hình sâu, bệnh hại và thiên địch trên cây trồng, xây dựng được bản đồ sâu bệnh hại, thiên địch đặc trưng cho từng loại cây trồng, dựa vào tình hình diễn biến sâu, bệnh hại có thể dự báo và đưa ra các khuyến cáo về thời điểm xuống giống, thời điểm phun xịt và số lượng thuốc bảo vệ thực vật tránh lãng phí, ô nhiễm môi trường.
Bài, ảnh: Thanh Đồng