Thời Trần, cả kinh đô Thăng Long đã là một điểm vui chơi giải trí. Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”, triều vua Trần Anh Tông (1293 – 1314), Thăng Long xuất hiện những hoạt động giải trí vào ban đêm: “Cứ đêm đêm, vua lại lên kiệu cùng hơn chục thị vệ đi chơi khắp kinh thành, đến gà gáy mới về. Có đêm ra phố phường, vua bị bọn vô lại ném gạch trúng đầu, người theo hầu phải hét: “Kiệu vua đấy”, bọn chúng mới tan chạy…”.
Thế kỷ XVII, Thăng Long có một chốn vang lừng tứ chiếng là các quán rượu có ca trù ở làng Võng Thị ven hồ Tây. Thời Lý, Trần, Võng Thị là một phường của kinh đô Thăng Long. Làng trồng hoa nên dân Thăng Long gọi là “Võng Thị điền hoa”. Các quán rượu mở trong những căn nhà lá xinh xinh kế bên những vườn nhài thoang thoảng mùi hương vào ban đêm gợi cảm xúc cho du khách. Khi mặt trời lặn xuống bên kia hồ là lúc Võng Thị bắt đầu nhộn nhịp. Đàn ông khắp nơi trong thành đổ về.
Các quán rượu ở Võng Thị bán thứ rượu vô cùng đặc biệt là rượu sen, do làng Thụy Chương (nay là Thụy Khuê) bên cạnh nấu với nhụy của giống sen Bách Diệp chỉ có ở hồ Tây. Rượu nức tiếng kinh thành nên có Nho sĩ làm bài thơ “Thụy Chương liên tửu” ca ngợi thứ rượu quý có mùi hương nồng nàn này.
Rượu ở đây ngon đến mức người ta thêu dệt nên câu chuyện Phật, dù giới tửu (hạn chế rượu) song vẫn uống, nên ở chùa Đõ có bức tượng Phật say. Tiếc là chùa Đõ không còn nên tượng cũng mất vì binh đao thời Lê – Mạc. Khách vừa uống rượu vừa thưởng thức giọng hát, tiếng đàn, thỉnh thoảng lại vang lên tiếng “chát, tom” thưởng những câu hát hay. Khách cũng kín đáo bỏ vào đấu gỗ chút tiền. Và cứ thế cuộc chơi kéo dài đến sáng. Trong bài thơ “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng, ông đã nhắc đến ngôi làng này: “Làng Võng Thị còn đông tiệc rượu/ Tiếng cầm đà não nuột buổi tà ô”.
Chúa Trịnh Giang (trị vì từ năm 1729 – 1740) cho xây một ly cung ở Khán Xuân (tương ứng với khu vực Phủ Chủ tịch và một phần Bách Thảo ngày nay) làm nơi nghỉ, cũng là nơi giải trí cho giới hoàng tộc. Chợ đêm Khán Xuân nổi tiếng vì nhà chúa sai các nội thần, cung nữ bày hàng bán và hát xướng suốt đêm. Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã phê phán thói xa hoa, phè phỡn của các chúa trong bài “Chơi đài Khán Xuân”: “Êm ái chiều xuân tới Khán Đài/ Lang lang chẳng bợn chút trần ai/ Bốn mùa chiêu mộ chuông gầm sóng/ Một vũng tang thương nước lộn trời…”.
Không chỉ chợ đêm Khán Xuân, Thăng Long có nhiều ca quán tập trung ở phường Hòe Nhai. Ninh Tốn (1743 – 1795), Tiến sĩ đời vua Lê Hiển Tông (1740 – 1786) có bài thơ ca ngợi phường hát này: “Bờ liễu đường hoa ai cũng đẹp/ Phong lưu vành chiếm một Hòe Nhai/ Nõn nà trăm vẻ khoe xuân sắc/ Uyển chuyển lời ca ghẹo khách hoài/ Hoa rụng bên đền ghen má phấn/ Oanh hào tiếng phách rộn bên ngoài/ Kẻ thường đâu dám chi nghìn lạng/ Phải đợi vương tôn quảy rượu sài”.
Năm 1799, Hương cống Đoàn Nguyễn Tuấn, em rể của thi hào Nguyễn Du, làm quan triều Tây Sơn, trước khi nghỉ hưu ra Thăng Long thăm thú thưởng ngoạn. Ông đến phường Hòe Nhai hát cô đầu và bị mê hoặc, sau đó ông làm bài thơ chữ Hán có tên là “Ca nữ phố Hòe Nhai”: “Giọng oanh trăm chiều khéo lựa lời ca/ Mắt đẹp đáng yêu thường gợn sóng sông thu/ Nhà cửa thanh nhã, tay nâng đàn sáo/ Dáng đẹp yêu kiều gượng mang gấm vóc/ Tình xuân trăn trở buồn bã đêm trăng/ Điệu cổ thê lương nghẹn ngào sáo trúc/ Rung động lòng người nhất là những chốn phong lưu/ Một khúc Nam âm thảnh thơi xướng họa”.
Các phong lưu thi sĩ thời đó có thú vui tao nhã là làm thơ Nôm, hát nói, họp các bạn thơ cùng xướng họa, rồi nhờ các cô đầu đàn hát để cùng thưởng thức. Sau trăm năm ở Hòe Nhai, các ca quán lại chuyển xuống phố Hàng Giấy. Khi Pháp xâm lược Hà Nội, thành phố xuất hiện các tụ điểm sinh hoạt theo kiểu châu Âu như tiệm nhảy đầm, cà phê âm nhạc. Ca quán ở Hàng Giấy vẫn nhộn nhịp nhưng tiền thuê nhà đắt lên nên đầu thập niên 1920, họ chuyển xuống ấp Thái Hà. Một số nhà hát lại chuyển lên Khâm Thiên thuê chỗ rộng hơn.
Năm 1938, đốc lý Hà Nội Henri Virgitti nhận xét: “Khâm Thiên là một xóm ăn chơi nhất, hiện đại nhất và đắt khách nhất. Đó là một xóm giàu có nhất trong khu vực này. Trên một đoạn phố không đầy 800m mà có tới 40 nhà hát với trên 200 con hát, thêm 5 tiệm khiêu vũ với khoảng dăm chục gái nhảy và có hai nhà săm cho thuê buồng. Các chủ xuất thân từ cô đầu, nhân tình của các quan lại An Nam cao cấp”. Chốn chơi này không chỉ là nơi đến của quan chức và người giàu có ham vui thích lạ, mà còn là chỗ chơi thường xuyên của giới văn nghệ Hà Nội.
Sau năm 1954, do quan niệm hát cô đầu là sự tha hóa của văn hóa phong kiến, còn nhảy đầm là lối sống tư sản cần phải bỏ nên các điểm giải trí ở Khâm Thiên đóng cửa.
Nguồn: https://hanoimoi.vn/nhung-diem-giai-tri-lung-danh-xua-688972.html