(Dân trí) – Từ một học trò nghèo ở Quảng Nam, GS Trần Văn Thọ trở thành chuyên gia kinh tế từng được mời tư vấn cho lãnh đạo cấp cao Việt – Nhật. Ông chia sẻ với Dân trí đúc kết về sự phát triển của Nhật Bản.
Thưa Giáo sư Trần Văn Thọ, được biết ông quê ở Quảng Nam nhưng có quá trình học tập, nghiên cứu và làm việc hơn nửa thế kỷ tại Nhật Bản. Xin Giáo sư chia sẻ với bạn đọc báo Dân trí một vài điều về mối duyên với đất nước Mặt trời mọc?
– Đây là câu chuyện ngẫu nhiên. Khi tôi đang học năm cuối Trung học Đệ nhị cấp tức là cấp 3 ở Hội An, Quảng Nam, thì một anh bạn rủ vào Sài Gòn (nay là TPHCM) học tiếp sau khi thi đỗ tú tài II. Những năm cuối thập niên 1960 ở quê tôi, những ai đỗ tú tài là học cao lắm rồi. Tôi cũng chỉ định học đến đó rồi tính sau. Nhưng anh bạn bảo “cứ vào Sài Gòn, anh sẽ kiếm việc cho, rồi vừa đi học vừa đi làm”.
Trong hoàn cảnh đất nước còn chiến tranh, nhiều khó khăn, với những người trẻ như tôi thì từ quê ở nông thôn miền Trung vào Sài Gòn cũng có thể coi như là đi… du học.
Ban đầu tôi vào Đại học Văn khoa, dự định học dự bị một năm, sau đó sẽ thi vào Đại học Sư phạm với chương trình học 3 năm. Nếu tốt nghiệp Đại học Sư phạm thì tôi có thể được bổ nhiệm đi dạy ở một trường Trung học đệ nhị cấp, tức là trường PTTH bây giờ. Con đường dự định là như vậy.
Cho đến một buổi chiều… định mệnh, tôi đang đi trên đường Lê Thánh Tôn nơi có Bộ Giáo dục của chính quyền Sài Gòn, thì thấy nhiều người đọc thông cáo trước cổng Bộ. Tôi tò mò dừng xe đạp, ghé xem thử chuyện gì mới biết là mọi người đang xem thông cáo về việc Chính phủ Nhật Bản tuyển sinh viên nước ngoài, cấp học bổng qua Nhật du học. Tôi xem các điều kiện dự thi, thấy mình có thể đáp ứng được nên về làm đơn nộp thử xem sao.
Bộ Giáo dục sơ tuyển, phỏng vấn ứng viên rồi đưa danh sách qua tòa Đại sứ Nhật Bản. Sau đó phía Nhật Bản tổ chức kỳ thi. Đề thi này áp dụng chung cho các nước trong khu vực Đông Nam Á và phía Nhật tuyển mỗi nước 6 người; 3 sinh viên học khoa học tự nhiên, 3 sinh viên khoa học xã hội.
Tôi may mắn trúng tuyển. Như vậy là trong vòng một năm, tôi từ chỗ một cậu học trò con nhà nghèo được đi du học hai lần, lần đầu là từ Quảng Nam vào Sài Gòn và lần hai là qua Nhật Bản. Cuộc đời tôi bước sang một bước ngoặt lớn, một may mắn mà tôi chưa bao giờ mơ tới.
Từ bước ngoặt kể trên, vì sao ông chọn lĩnh vực học tập và nghiên cứu về kinh tế, trở thành Giáo sư kinh tế?
– Qua Nhật tôi nộp đơn theo ngành khoa học xã hội. Tôi vốn thích văn chương, nếu ở Việt Nam sẽ theo học ngành này rồi tốt nghiệp Đại học đi dạy Văn cấp III tức trung học phổ thông. Nhưng ra nước ngoài học văn chương tôi nghĩ là khó giỏi, vì phải giỏi ngôn ngữ, nhất là cổ văn. Vậy nên tôi quyết định theo học ngành kinh tế vì một số lý do sau:
Thứ nhất lúc đó Việt Nam còn chiến tranh, nên tôi nghĩ khi hòa bình lập lại thì quê hương mình sẽ cần những chuyên gia kinh tế để phục vụ cho công cuộc tái thiết đất nước.
Thứ hai, tôi qua Nhật vào tháng 4/1968, đây là lúc Nhật Bản kỷ niệm 100 năm Minh Trị Duy Tân và đang phát triển rất mạnh mẽ, như một con rồng trỗi dậy với tốc độ tăng trưởng trung bình 10% mỗi năm.
Quá trình phát triển của Nhật Bản khởi đầu từ thời Minh Trị Duy Tân, nhưng do những hạn chế của thời đại (về thông tin, về các phương tiện và thời gian để hấp thu những tiến bộ của thế giới văn minh.v.v…), và vì phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh, nên nước Nhật phải đợi đến thập niên 1970 mới đạt mục tiêu theo kịp các nước tiên tiến phương Tây.
Vươn lên từ một quốc gia bị tàn phá trong Thế chiến II, chỉ trong vòng 10 năm Nhật hồi phục lại mức phát triển cao thời tiền chiến và tiếp theo là giai đoạn phát triển ngoạn mục 18 năm (1955-1973) đã làm thay đổi hoàn toàn đời sống của người dân và vị trí của Nhật trên vũ đài quốc tế.
Bản thân tôi và nhiều người dân ở trong nước hồi đó cũng đã biết đến những sản phẩm điện tử, xe Honda… chất lượng cao của Nhật Bản.
Năm 1968 khi tôi qua Nhật là năm đánh dấu mốc Nhật Bản vượt Tây Đức trở thành nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới. Rút ra các kinh nghiệm qua việc trực tiếp chứng kiến sự phát triển ngoạn mục của Nhật là lý do chính khiến tôi quan tâm, muốn học về kinh tế học.
Ấn tượng lớn nhất của ông trong những ngày đầu tiên qua Nhật Bản du học là gì?
– Cũng như nhiều bạn du học sinh khác, tôi thấy mọi thứ đều lạ lẫm và cố gắng hòa nhập vào môi trường mới. Tôi sang Nhật lần đầu vào mùa hoa anh đào nở nên phong cảnh rất đẹp, rất ấn tượng. Lúc ấy có một sự kiện cũng ảnh hưởng nhiều đến suy nghĩ của tôi. Đó là việc văn hào Kawabata Yasunari được trao giải Nobel văn chương năm 1968. Sự kiện này làm tôi quan tâm đến các tác phẩm của ông và sớm cảm thấy gần gũi với tâm tình, với văn hóa Nhật Bản.
Trên thế giới đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu về sự thành công của Nhật Bản. Theo Giáo sư, đâu là nguyên nhân tổng hợp nhất để có thể tham khảo được cho các nước đi sau?
– Đây là một câu hỏi rất hay. Mỗi người tùy vào góc nhìn của mình sẽ đưa ra các câu trả lời khác nhau. Riêng tôi đã thử tìm một nguyên nhân tổng hợp nhất để có thể tham khảo được cho các nước đi sau Nhật, và tôi đã tìm ra một từ khóa là “năng lực xã hội”. Hay nói cách khác là năng lực và tố chất của những nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là của chính trị gia, quan chức, doanh nhân, trí thức và tầng lớp lao động.
Các nhân tố này của nước Nhật có những tố chất, năng lực giúp cho sự phát triển của đất nước, và nước Nhật cũng có những cơ chế để kết hợp các thành phần này thành một khối có thể hỗ trợ và bổ sung cho nhau, tạo thành năng lực xã hội vững mạnh.
Trước hết về chính trị gia, tức là những người giữ vị trí lãnh đạo cấp cao thì tố chất nổi trội của họ chính là năng lực lãnh đạo và dẫn dắt đất nước, tầm nhìn đại cuộc, biết dùng người tài, khả năng hình thành sự đồng thuận cao của toàn dân.
Về giới quan chức, những người tham gia bộ máy công quyền trung ương cũng như địa phương, mà ở Việt Nam hiện nay là những người giữ chức vụ ở cấp thứ trưởng và tương đương trở xuống, thì tố chất của họ là năng lực quản lý hành chính, tinh thần trách nhiệm, tác phong đạo đức của người công bộc, chí công vô tư.
Một quan chức có thể vươn lên thành chính trị gia thông qua bầu cử hoặc trọn đời (cho đến khi về hưu) làm quan chức chuyên nghiệp. Ở Nhật để trở thành quan chức, tham gia vào bộ máy công quyền thì trước hết phải trải qua kỳ thi tuyển chọn quy mô toàn quốc.
Các kỳ thi này ở Nhật được tổ chức hàng năm rất quy củ, không phải mỗi bộ tổ chức kỳ thi riêng mà do Viện nhân sự là một cơ quan nhà nước độc lập với các bộ tổ chức thi. Họ có ba kỳ thi gồm: Kỳ thi tuyển quan chức nhà nước loại I (cấp cao) và kỳ thi tuyển chọn quan chức loại II, loại III. Những người trúng tuyển loại I sẽ được đào tạo để trở thành các quan chức cấp vụ trưởng, thứ trưởng… trong tương lai. Còn những người loại II và loại III thì làm những việc chuyên môn như kế toán, văn thư, phiên dịch… Quan chức loại II, loại III nếu thể hiện năng lực tốt trong quá trình làm việc có thể thăng lên loại I.
Kỳ thi tuyển loại I được mở hàng năm vào tháng 6. Đối tượng dự thi chủ yếu là sinh viên đang học năm thứ tư ở các trường đại học. Mỗi năm Nhật tuyển chọn một vài ngàn quan chức loại I, người dự thi có thể đông gấp vài chục lần số trúng tuyển nên đây là kỳ thi có sự cạnh tranh gay gắt.
Người trúng tuyển được quyền lựa chọn nơi làm việc, nhưng một số bộ người chọn quá đông nên các ứng viên lại phải thi thêm một kỳ, vượt qua thì mới chính thức trở thành công chức của bộ đó.
Chính vì phải trải qua các kỳ thi khó khăn như vậy nên trở thành quan chức là một sự tự hào lớn. Nước Nhật có đội ngũ quan chức giỏi và nhìn chung hội đủ các đạo đức cần thiết là nhờ chế độ thi tuyển nghiêm minh, chế độ đào tạo bài bản và chế độ đãi ngộ tốt. Nhiều quan chức của Nhật Bản đã trở thành hình tượng anh hùng trong giai đoạn phát triển thần kỳ của đất nước.
Từ 30 năm trước, tôi đã kiến nghị Việt Nam áp dụng kinh nghiệm tổ chức kỳ thi quan chức toàn quốc của Nhật Bản, tuy nhiên không rõ vì sao đến nay các bộ vẫn tổ chức thi riêng.
Nhân tố tiếp theo là doanh nhân. Tố chất cần thiết của nhà kinh doanh là tinh thần doanh nghiệp, trong đó có tinh thần mạo hiểm, nỗ lực khám phá thị trường mới, nguyên liệu mới, công nghệ và phương thức quản lý mới, đi kèm với đó là năng lực chịu đựng rủi ro.
Một tố chất quan trọng khác của doanh nhân là đạo đức kinh doanh. Người kinh doanh mưu tìm lợi nhuận nhưng đó là lợi nhuận chân chính chứ không phải là mưu tìm đặc lợi, không phải là tìm cách quan hệ với quan chức, chính trị gia để “xin – cho”.
Ở Nhật Bản, nhiều công ty được thành lập trước Thế chiến II nhưng lớn mạnh trong giai đoạn sau chiến tranh như Toyota, Hitachi, Canon, Panasonic, Shiseido… Một số công ty ra đời sau chiến tranh và lớn mạnh nhanh chóng như Sony, Honda, Sanyo… Hai nhóm công ty này đều là những doanh nghiệp tiêu biểu đóng góp vào sự phát triển thần kỳ giai đoạn 1955-1973.
Ngoài các nội dung của tinh thần doanh nghiệp nêu trên, lãnh đạo các công ty này còn luôn thể hiện ý thức trách nhiệm cao đối với đất nước, dân tộc, có hoài bão lớn. Chẳng hạn Ibuka Masaru, người đồng sáng lập công ty Sony, trong bài diễn văn tại buổi lễ thành lập công ty năm 1946, đã nói “ta phải dùng sức mạnh công nghệ để góp phần vào việc phục hưng của tổ quốc chúng ta”. Có thể nói chính các nhà doanh nghiệp Nhật Bản là những người tiên phong đưa nước Nhật vươn lên hùng mạnh.
Ngày nay, người Nhật vẫn truyền tụng những câu chuyện cảm động, gây phấn chấn lòng người về các nhà doanh nghiệp lớn của Nhật. Vào đầu tháng 7 vừa qua, lần đầu tiên một nhà doanh nghiệp được chọn in hình trên tiền của Nhật Bản và là tờ tiền có mệnh giá cao nhất (10.000 Yen).
Nhà doanh nghiệp này là Shibusawa Eiichi (1840-1931). Ông được lịch sử đánh giá là ông tổ của kinh tế hiện đại Nhật Bản, là cha đẻ của chủ nghĩa tư bản Nhật Bản, vì đi tiên phong trong việc phát triển rất nhiều ngành kinh tế mới, gầy dựng rất nhiều doanh nghiệp là tiền thân của nhiều công ty tiêu biểu ngày nay. Hơn thế nữa, ông còn là người xác lập đạo đức kinh doanh, kết hợp lợi ích công và tư, tạo thành mẫu mực tinh thần phụng sự xã hội của doanh nghiệp.
Với trí thức, tố chất cần thiết là sự quan tâm cao độ vào các vấn đề của đất nước, thời cuộc và hiện thực của kinh tế – xã hội, nỗ lực nghiên cứu, tìm tòi các biện pháp góp phần cải thiện xã hội, góp phần làm cho kinh tế phát triển, nỗ lực dùng kiến thức của mình vào việc “khai dân trí”.
Cuối cùng với những người lao động, tố chất cần thiết là phải được giáo dục, đào tạo, có trình độ ngày càng cao, kỹ năng, năng lực chuyên môn ngày càng được bồi dưỡng tốt hơn và sự hăng say làm việc với tinh thần trách nhiệm.
Tố chất của các thành phần trong xã hội có thể một phần do bẩm sinh và do kinh nghiệm mà hình thành, nhưng có thể nói phần lớn là do chính sách, cơ chế tạo nên.
Chẳng hạn, như đã nêu ở trên, Nhật Bản có đội ngũ quan chức giỏi và liêm chính là nhờ thi tuyển cạnh tranh, công khai, chế độ đãi ngộ xứng đáng và hệ thống pháp luật hoàn chỉnh làm hạn chế những quyết định thiếu công minh của quan chức; sự giám sát, phê phán của xã hội đối với quan chức rất chặt chẽ, nghiêm khắc làm họ phải hết sức giữ gìn, thận trọng…
Hoặc Hàn Quốc có đội ngũ lao động lành nghề, trình độ hấp thu công nghệ ngày càng cao là nhờ chính sách chú trọng giáo dục, đào tạo và đầu tư đúng hướng trong khoa học, công nghệ.
Ngoài ra, cơ chế đúng còn giúp cố kết các thành phần lại với nhau thay vì tồn tại rời rạc trong xã hội. Ví dụ khi nhà nước hoạch định một chính sách chiến lược sẽ có sự tham gia của không chỉ lãnh đạo, quan chức mà cả giới trí thức, doanh nhân… Ý kiến của đại biểu những người lao động, của doanh nhân là những người làm trực tiếp là rất quan trọng; còn giới trí thức thì giúp nghiên cứu chuyên sâu, phản biện, xây dựng chính sách… Tất cả tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho nhà nước, vì nhà nước đâu phải hiểu biết hết mọi vấn đề, mọi lĩnh vực.
Trong góc nhìn của giáo sư thì năng lực xã hội quan trọng hơn so với những lợi thế khác, ví dụ như tài nguyên thiên nhiên?
– Đúng như vậy. Theo tôi, năng lực xã hội đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Một quốc gia, vùng lãnh thổ có năng lực xã hội mạnh thì cho dù tài nguyên thiên nhiên hạn chế vẫn phát triển nhanh, sớm gia nhập thế giới thứ nhất, có thể kể đến như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan…
Tôi nghiệm thấy rằng tố chất chung nhất của các thành phần trong xã hội Nhật Bản hay Hàn Quốc là lòng yêu nước, tự hào dân tộc và có khát vọng đưa đất nước phát triển, còn tố chất riêng của mỗi thành phần thì như trên đã phân tích.
Giáo sư nhìn nhận như thế nào về năng lực xã hội của Việt Nam?
– Nếu nói tương đối, trong mỗi thành phần của xã hội Việt Nam đều có những tố chất cần thiết. Chẳng hạn nói về doanh nhân. Cá nhân tôi từng gặp một số doanh nhân người Việt mang tinh thần doanh nghiệp rất mạnh mẽ… Nhưng nói chung còn rất nhiều mặt phải thay đổi, nhất là môi trường kinh doanh, hành lang pháp lý để nhà kinh doanh phát huy tinh thần doanh nghiệp.
Ở Việt Nam, ta thấy hiện tượng “xin – cho” trong kinh doanh còn khá phổ biến, nghĩa là mưu tìm đặc lợi còn chi phối tư duy kinh doanh của một bộ phận nhà doanh nghiệp. Hay là hiện tượng mà báo chí gọi là “lương khủng” của lãnh đạo nhiều doanh nghiệp. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp khu vực công không có thành tích xuất sắc trong kinh doanh, thậm chí có trường hợp thua lỗ, cũng định cho mình mức lương quá lớn. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp khu vực tư có cuộc sống xa hoa, cách chi tiêu còn hơn nhiều nhà tư bản lớn ở các nước tiên tiến, nên ta có thể suy đoán họ cũng quy định cho mình mức thù lao hoặc tiền lời rất lớn. Có trường hợp công ty của mình đang lớn mạnh, lại đem bán cho nước ngoài để có số tiền lớn dùng cho cuộc sống mới ở nước ngoài.
Nếu muốn bồi đắp năng lực xã hội thì Việt Nam cần đề cao triết lý kinh doanh vì xã hội, vì đất nước, vì tương lai dân tộc.
Một vấn đề khác như tôi nêu ở trên, năng lực xã hội không phải tự nhiên, mà phải có cơ chế để hình thành nên các tố chất cần thiết. Ở Việt Nam nhiều cơ chế còn bất cập, ví dụ như vấn đề cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ công chức, viên chức… Lương thấp ảnh hưởng đến chất lượng nền công vụ và phần nào đó là lý do dẫn đến tiêu cực, nhũng nhiễu.
Một nhân tố quan trọng của năng lực xã hội là lao động. Giáo dục, đào tạo làm tăng chất lượng lao động. Tuy nhiên trên thực tế không phải nước nào cũng thành công trong việc cung cấp lao động có năng lực thích ứng cho từng giai đoạn phát triển. Có trường hợp hiểu sai nội dung của chất lượng lao động, tưởng rằng tăng cường giáo dục đại học và trên đại học là chính sách đúng đắn mặc dù kinh tế còn ở giai đoạn phát triển thấp hoặc trung bình thấp.
Trước đây ở Nhật Bản, tỷ lệ người học sau đại học trong tổng số sinh viên tốt nghiệp đại học tương đối nhỏ và không thay đổi nhiều, từ năm 1965 đến 1975 (giai đoạn phát triển thần kỳ) chỉ ở mức 4%. Số người học lên bậc sau đại học hầu hết là người sẽ dạy ở đại học hoặc làm ở các viện nghiên cứu, kể cả các viện ở các công ty lớn. Trong giới quan chức và lãnh đạo chính trị, người có bằng thạc sĩ hay tiến sĩ chỉ là ngoại lệ và không được xem như điều kiện để được tuyển dụng hay đề bạt.
Ở Việt Nam nét văn hóa tích cực là hiếu học, nhưng cùng với đó là tình trạng chạy theo bằng cấp. Chúng ta có rất nhiều tiến sĩ nhưng lại thiếu kỹ sư giỏi, thiếu lao động tay nghề cao, mọi người quen gọi là tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”.
Trên đây chỉ là vài vấn đề về năng lực xã hội ở Việt Nam. Để bàn kỹ và toàn diện về vấn đề này chắc chắn cần những cuộc thảo luận sâu rộng hơn.
Việt Nam đặt mục tiêu trở thành nước tiên tiến, thu nhập cao vào năm 2045, tức chỉ còn hơn 20 năm nữa. Giáo sư nhận định như thế nào về thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thực hiện mục tiêu này?
– Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp và khó lường, các cường quốc đối đầu, chiến tranh ở châu Âu, Trung Đông, căng thẳng ở eo biển Đài Loan… Trong bối cảnh khó đoán định đó, nhờ vị trí địa chính trị chiến lược, Việt Nam lại có những mặt thuận lợi để phát triển.
Trước hết là Việt Nam đang nằm trong một khu vực phát triển năng động, một trong những cửa ngõ vào ASEAN và cửa ngõ từ ASEAN vào Trung Quốc. Việt Nam có quan hệ đối ngoại rộng mở, là đối tác toàn diện với 12 quốc gia, đối tác chiến lược với 18 quốc gia, trong đó có 7 quốc gia là Đối tác Chiến lược toàn diện và đều là các nước lớn. Trong thời gian ngắn vừa qua lãnh đạo nhiều cường quốc đã đến Việt Nam để nâng cấp hoặc tăng cường quan hệ.
Đây là những mặt thuận lợi rất lớn cho Việt Nam, là cơ hội để tiếp nhận nguồn vốn, tiếp nhận công nghệ, tiếp nhận tri thức, tiếp cận thị trường…
Đó là bên ngoài, còn bên trong chúng ta cũng có nhiều điểm sáng, ví dụ như nguồn nhân lực với thế hệ trẻ thông minh, tiếp cận nhanh khoa học công nghệ. Tất nhiên ở chiều ngược lại, trong bối cảnh toàn cầu hóa thì câu chuyện di cư lao động là một thực tế. Đất lành chim đậu, ở đâu môi trường kinh doanh, môi trường làm việc, môi trường sống tốt hơn thì giới tinh hoa sẽ có xu hướng tìm đến định cư ở đó. Thực tế này có thể dẫn đến tình trạng chảy máu chất xám nếu Việt Nam không lưu ý tạo dựng môi trường hấp dẫn.
Nhìn chung, trong bối cảnh địa kinh tế chính trị hiện nay, tuy có những thuận lợi nhưng Việt Nam cũng đang đứng trước những sự cạnh tranh gay gắt. Trong một thế giới biến động, ai có năng lực chớp thời cơ nhanh thì lợi thế thuộc về người đó. Trước những biến đổi của thị trường, của công nghệ, nhà nước cũng như doanh nghiệp phải có đối sách nhanh chóng. Nhưng về mặt nhà nước, quy trình ra quyết định và thực thi chính sách ở Việt Nam chậm chạp nhiều khi dẫn đến mất thời cơ.
Môi trường đầu tư của Việt Nam đã được cải thiện nhiều trong những năm qua, nhưng mức độ hấp dẫn chưa phải là vượt trội so với nhiều nước khác, ngay cả so với một số nước trong khu vực. Vì vậy khi các cường quốc đối đầu, dòng đầu tư dịch chuyển, nhưng dịch chuyển đến Việt Nam hay đến đâu thì còn phụ thuộc vào môi trường đầu tư.
Nền kinh tế Việt Nam cũng tồn tại các vấn đề như giải ngân vốn đầu tư công chậm, hiệu quả đầu tư chưa cao như yêu cầu đặt ra, năng suất lao động thấp… Cơ cấu doanh nghiệp đa số là nhỏ và vừa, thậm chí siêu nhỏ. Các doanh nghiệp này gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận nguồn lực và tìm kiếm sự hỗ trợ từ cơ quan chức năng. Tôi biết có trường hợp doanh nghiệp nằm trong diện được vay ưu đãi, hưởng lãi suất thấp hơn khoảng 2 điểm phần trăm so với lãi suất thị trường. Nhưng để được hưởng chính sách này thì doanh nghiệp phải thực hiện rất nhiều thủ tục, giấy tờ, mất thời gian đi qua nhiều cửa… nên họ quyết định “thà vay lãi suất thị trường còn hơn”.
Đây chính là vấn đề liên quan đến năng lực xã hội, tinh thần trách nhiệm của quan chức trong việc hỗ trợ doanh nghiệp để phát triển kinh tế, chấn hưng đất nước.
Từ bài học phát triển của Nhật Bản, Giáo sư nhận định như thế nào về các yếu tố cần thiết để Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành nước tiên tiến, thu nhập cao vào năm 2045?
– Những đặc điểm về cơ cấu kinh tế của Việt Nam hiện nay như tỷ trọng của nông nghiệp trong tổng sản phẩm trong nước, hay tỷ trọng của kinh tế cá thể, của doanh nghiệp nhỏ và vừa… rất giống với Nhật Bản vào giữa thập niên 1950, khi Nhật bắt đầu giai đoạn phát triển thần kỳ.
Với giai đoạn phát triển ngoạn mục, trung bình 10% mỗi năm và kéo dài liên tục gần 20 năm, Nhật Bản đã chuyển từ nước thu nhập trung bình lên một cường quốc công nghiệp, vươn lên vị trí của một nước thu nhập cao, thực hiện giấc mơ và mục tiêu “theo kịp các nước tiên tiến phương Tây” của các bậc tiền bối thời Minh Trị.
Dĩ nhiên bối cảnh quốc tế và nhiều điều kiện khởi đầu của Nhật 60-70 năm trước không giống Việt Nam thời nay, nhưng có thể nói những yếu tố cơ bản làm nên sự thành công của phát triển kinh tế thì phổ quát trong mọi thời đại. Ngoài yếu tố “năng lực xã hội” mà tôi đã phân tích ở trên, còn một yếu tố liên quan quan trọng nữa là “nhà nước kiến tạo phát triển”.
Nhà nước kiến tạo phát triển lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm ưu tiên hàng đầu, từ đó đưa ra mục tiêu phát triển làm cho dân giàu nước mạnh, và tạo các cơ chế động viên, thúc đẩy các nguồn lực để đạt mục tiêu. Trong một thế giới mà trật tự đã được các nước tiên tiến xác lập và bất lợi đối với các nước chưa phát triển, lãnh đạo của nước đi sau phải đủ trí tuệ và bản lĩnh tìm ra chiến lược phù hợp với lợi ích của đất nước mình.
Theo phân loại của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam sắp đến giai đoạn thu nhập trung bình cao, có thể đạt được trước năm 2030. Mục tiêu của Việt Nam là trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045, nghĩa là từ thu nhập trung bình cao đến thu nhập cao khoảng 17-18 năm. Về mặt thời gian cũng bằng giai đoạn phát triển thần kỳ của Nhật Bản. Trong giai đoạn này nếu mỗi năm Việt Nam tăng trưởng trung bình 7-8% thì có thể đạt được mục tiêu đã đề ra.
Trong lĩnh vực kinh tế, ở Việt Nam lâu nay có cuộc bàn luận sôi nổi về việc “đổi mới mô hình tăng trưởng”, hướng tới mục tiêu tăng trưởng nhanh và bền vững. Ý kiến chủ đạo trong giới chính sách là Việt Nam phải chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên đầu vào (đầu tư, tích lũy tư bản) sang mô hình dựa trên đổi mới sáng tạo (innovation) mới tránh được bẫy thu nhập trung bình, thực hiện thành công mục tiêu trở thành nước tiên tiến, thu nhập cao vào năm 2045.
Tôi có cách tiếp cận khác. Từ kinh nghiệm Nhật Bản, tôi cho rằng tích lũy tư bản và đổi mới sáng tạo có quan hệ hỗ tương và đều đóng vai trò quan trọng trong quá trình vượt qua bẫy thu nhập trung bình, tiến lên mức phát triển thu nhập cao. Các vấn đề liên quan là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải cách thị trường, sản xuất và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo tôi, bất cứ giai đoạn nào phát triển cũng cần phải đầu tư và tích lũy tư bản, chứ không thể nào nói rằng khi đổi mới mô hình tăng trưởng thì chúng ta chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác mà bỏ qua các yếu tố đầu vào. Nói như vậy để thấy rằng chặng đường từ nay đến năm 2045 thì các yếu tố đầu vào (đầu tư, tích lũy tư bản) và đổi mới sáng tạo đều quan trọng.
Khi nói đến việc thực hiện mục tiêu tầm cỡ quốc gia thì đòi hỏi tất cả các thành phần trong quốc gia đó phải là một khối đồng sức, đồng lòng. Bộ máy nhà nước hoạt động hiệu quả, trong đó năng lực và phẩm chất của những người lãnh đạo chính trị, của quan chức đóng vai trò quyết định. Mọi người phải dốc sức với suy nghĩ rằng 20 năm nữa sẽ tự hào chứng kiến một Việt Nam hùng mạnh, thịnh vượng, sánh vai với các quốc gia tiên tiến trên thế giới.
Cách đây gần chục năm, tôi từng viết bài báo lấy cảm hứng từ câu thơ của vua Trần Thái Tông “Người lính già đầu bạc / kể mãi chuyện Nguyên Phong”. Đây là hai câu thơ nói về sự tự hào của những người lính từng tham gia bảo vệ tổ quốc, chống quân xâm lược, khi về già họ thấy hạnh phúc, thanh thản với những gì mình đã làm cho đất nước. Tôi mong rằng 20 – 30 năm nữa cũng sẽ có những thế hệ người Việt đầu bạc tự hào với sự cống hiến của mình, tự hào về việc đất nước đã gia nhập hàng ngũ những nước tiên tiến.
Là một trí thức đã có nhiều đóng góp lớn vào việc làm “cầu nối” quan hệ giữa hai nước, nhất là quan hệ hợp tác kinh tế, Giáo sư suy nghĩ như thế nào về các lĩnh vực có thể đẩy mạnh hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản thời gian tới?
– Về vĩ mô thì hai nước có thể mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực mới như đổi mới sáng tạo, chuyển giao công nghệ, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đào tạo nguồn nhân lực.v.v..
Đi vào cụ thể tôi thấy có mấy lĩnh vực cần chú ý như sau.
Thứ nhất là công nghiệp phụ trợ. Nhật Bản đang trong tình trạng già hóa dân số, trong khi doanh nghiệp nhỏ và vừa của họ rất mạnh, làm chủ nhiều lĩnh vực công nghệ cao. Chẳng hạn như ở Tokyo có một quận tập hợp rất nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa sở hữu công nghệ cao. Vì tình trạng già hóa dân số nên nhiều doanh nghiệp lâm vào cảnh không có người thừa kế các công nghệ, kỹ thuật của gia đình.
Lâu nay tôi đã đề xuất Việt Nam tăng cường hợp tác với Nhật Bản trong việc chuyển giao các công nghệ này sang cho doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Hay nói cách khác, doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam sẽ tiếp nhận công nghệ, kỹ thuật từ các doanh nghiệp không có người thừa kế ở Nhật Bản.
Thứ hai, về hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), theo thời gian thì Việt Nam phải dần “tốt nghiệp ODA”, tức là không cần dùng ODA nữa hoặc tiếp nhận ODA ở mức hạn chế, chỉ chọn lựa những lĩnh vực rất cần thiết.
Thứ ba, để chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao, Việt Nam cần kêu gọi đầu tư vào những ngành công nghệ cao. Theo hướng này, Việt Nam có thể lập những khu công nghiệp đặc biệt dành cho các doanh nghiệp Nhật Bản có công nghệ cao đầu tư. Ví dụ, vốn ODA của Nhật có thể chỉ áp dụng cho các khu công nghiệp này thôi, và qua vốn ODA để thu hút đầu tư công nghệ cao từ Nhật Bản.
Thứ tư, ngoài kinh tế thì hiện nay Nhật Bản đang triển khai các chính sách hợp tác về an ninh, phòng vệ (OSA) với một số nước (về tăng cường năng lực phòng vệ, tuần tra bờ biển…). Đây là lĩnh vực mà hai nước có thể tăng cường hợp tác.
Quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển rất tốt đẹp. Trong vòng 10 năm, hai nước đã nâng cấp quan hệ từ “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng của châu Á” lên thành “Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á và trên thế giới”.
Ông Umeda Kunio, cựu Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam, từng nói với tôi rằng Việt Nam bây giờ đối với Nhật là nước quan trọng nhất trong khối ASEAN. Ông đã viết một cuốn sách về quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản, trong đó đưa ra thông điệp Nhật Bản và Việt Nam là “đồng minh tự nhiên”, ý nói là đồng minh không dựa trên hiệp định chính thức nhưng dựa trên sự tin cậy cao độ và sẵn sàng giúp đỡ nhau. Đây là những điều kiện rất thuận lợi để đẩy mạnh hơn nữa hợp tác giữa hai nước trên tất cả các lĩnh vực.
Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư Trần Văn Thọ.
Dantri.com.vn
Nguồn:https://dantri.com.vn/xa-hoi/giao-su-tran-van-tho-noi-ve-nang-luc-xa-hoi-va-su-tin-cay-viet-nhat-20240811122754242.htm