Từ triết lý bắn Pháp chảy máu
Nói đến Tây Nguyên không thể không nhắc đến Anh hùng Núp – người con ưu tú, cánh chim đầu đàn của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Cuộc đời cách mạng của Ông đã đi vào lịch sử dân tộc và nhiều tác phẩm Văn học – Nghệ thuật nổi tiếng. Không chỉ Việt Nam biết tên Ông, rất nhiều quốc gia trên thế giới ngưỡng mộ con người đặc biệt này.
Anh hùng Núp còn có tên là Sar, người dân tộc Bahnar, sinh ngày 02/5/1914 tại Đe Dong, xã Nam, huyện An Khê nay là làng Stơr, xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Từ những năm trước Cách mạng tháng Tám, với vũ khí thô sơ, Núp đã cùng dân làng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, cũng từ đây mô hình “làng kháng chiến” trên chiến trường Gia Lai ra đời.
Với mũi tên bắn Pháp chảy máu, Núp đã làm thay đổi quan niệm, ý chí của người Bahnar về đánh giặc. Trước đây, họ chỉ bất hợp tác với kẻ thù, chứ không dám đánh lại, vì cho rằng: “Bọn này có xe, có máy bay, có súng nhỏ, súng lớn; trên trời nó cũng đi được, dưới nước nó cũng đi được, đánh trúng nó, nó không có máu” . Kể từ đó, dân làng tin theo Núp và hạ quyết tâm đánh giặc.
Cuối năm 1950 đầu năm 1951, thực dân Pháp đã tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét, đốt làng, phá rẫy, cướp lúa… quyết phá cho được làng Stơr. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng và sự chỉ huy mưu trí của Thôn đội trưởng Núp, dân quân du kích làng Stơr dựa vào núi rừng hiểm trở, sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích với chông tre, bẫy đá, cung tên… đã nhiều lần đánh bại quân thù. Chín lần phải dời làng, trải qua nhiều ngày tháng đói cơm, lạt muối, dân làng Stơr dưới sự lãnh đạo của Núp vẫn một lòng tin theo Đảng, “Bok Hồ” và cách mạng. Tinh thần bất khuất ấy được thể hiện trong câu nói của Núp vào năm 1951, khi trả lời Đoàn nghiên cứu của Liên khu V về kinh nghiệm làng kháng chiến Stơr: “Nếu có đánh chết, còn một người cũng chống lại. Nếu chẳng may địch bắt được một vài người, làng không thèm chuộc lại như trước kia … Chết thôi! Không hàng!”.
Gương chiến đấu của làng Stơr, của Núp có sức ảnh hưởng ngày càng rộng trong toàn vùng, tạo thuận lợi trong việc phát động xây dựng bố phòng làng kháng chiến, hình thành ngọn lửa kháng Pháp trên khắp vùng Tây Nguyên.
Năm 1953, Núp dự Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua toàn Liên khu, được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Sau nhiều năm đánh Pháp, Núp cùng con trai tập kết ra Bắc học tập và được kết nạp Đảng.
Ngày 31/8/1955, Ông vinh dự được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, trở thành người Tây Nguyên đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý này. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tặng cho Ông một áo lụa và huy hiệu của Người.
Sau khi tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” được phổ biến rộng rãi, Anh hùng Núp được cả nước và bạn bè quốc tế biết đến, mến phục. Năm 1964, Ông đã sang thăm đất nước Cuba theo lời mời của Chủ tịch Fidel Castro, và nhận kết tình bằng hữu với vị lãnh tụ này.
Ở một góc độ nào đó, có thể nhận xét rằng, sự nghiệp cách mạng của người Anh hùng Bahnar này, có lẽ sẽ không như những gì đã xảy ra, nếu ngay từ buổi đầu tiên gian khó, Ông không kịp nhận ra một chân lý: Đoàn kết cùng nhau, người Tây Nguyên có thể đánh thắng giặc Pháp. Bắn Pháp chảy máu là một cách nói hình ảnh, thể hiện sự thay đổi nhận thức mang tính bản lề của những người miền núi tự tin đứng dậy chống ách ngoại xâm.
Đến người cán bộ tận tâm với sự nghiệp
Mười năm sau kể từ ngày tập kết ra Bắc, Núp trở lại Tây Nguyên. Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh tổ chức đầu tháng 7 năm 1965, ông nhận nhiệm vụ mới trên cương vị Bí thư huyện 10 (Khu 10) .
Giai đoạn 1965 đến 1975, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Gia Lai bước vào thời kỳ đấu tranh gian khổ, chống các chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, sự chỉ đạo của Bí thư Núp, quân và dân huyện 10 vừa tăng cường củng cố, xây dựng cơ sở kháng chiến, vừa tích cực tăng gia sản xuất, đóng góp sức người, sức của cho cách mạng tỉnh nhà.
Trong những năm 1965 – 1968, Mỹ – Nguỵ tổ chức nhiều cuộc hành quân lớn, tăng cường sử dụng các loại máy bay chiến lược, ném bom rải thảm khắp vùng, với mục tiêu phá huỷ hoàn toàn căn cứ kháng chiến của tỉnh. Trước tình hình đó, Cấp uỷ Khu 10, Anh hùng Núp ra sức vận động Nhân dân các xã Krong, Kơpier, Lơpa tích cực hưởng ứng phong trào thi đua sản xuất, giết giặc lập công.
Trong sản xuất, Ông chủ trương kêu gọi Nhân dân phải triệt để thực hành tiết kiệm từ lương thực, thực phẩm cho tới các loại rau củ trong rừng. Thậm chí, cây môn nước chỉ được cắt lá không được nhổ, các loại củ từ gai, củ mài, đào xong là lấp xuống cho mọc lại… Đồng thời, động viên Nhân dân ra sức sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ hoa màu, thâm canh tăng vụ, với phương châm “tất cả vì sự nghiệp cách mạng, không để bộ đội đói”, “một gùi mình cũng cho, một nắm mình cũng chia”, “quanh năm sản xuất, bốn mùa có ăn”. Chiến dịch trồng mì phát triển rộng khắp vùng căn cứ, Nhân dân các xã coi mì là cây lương thực chiến lược, nguồn thức ăn chủ yếu hàng ngày.
Từ kinh nghiệm chiến đấu thời chống Pháp, Bí thư Núp đã chỉ đạo Nhân dân các làng, xã trong vùng tiếp tục thực hiện chiến tranh du kích, đẩy mạnh vót chông bố phòng, xây dựng và củng cố làng kháng chiến chống lại các cuộc hành quân càn quét của địch. Hàng năm, mỗi người dân 3 xã căn cứ đóng góp hàng ngàn cây chông để bố phòng chống địch .
Tại Đại hội thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh tổ chức giữa năm 1968, Anh hùng Núp, Tỉnh uỷ viên, được bầu giữ chức Phó Chủ tịch. Từ đây, Ông cùng các đồng chí trong Uỷ ban thực hiện củng cố bộ máy chính quyền từ huyện xuống xã, thôn. Sự kiện chính trị này đã khẳng định sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng và là niềm tự hào của Nhân dân vùng căn cứ, cổ vũ lòng tin, ý chí đấu tranh cách mạng của Nhân dân các dân tộc Gia Lai.
Trong việc huy động nguồn nhân lực, vật lực phục vụ cho chiến trường thời kì 1968 – 1973, Bí thư Núp có vai trò rất lớn. Dưới sự chỉ đạo của Ông, Chi bộ 3 xã Krong, Kơpier, Lơpa đã tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia kháng chiến, với tinh thần “Thắt lưng buộc bụng”,“Dốc túi”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho mặt trận”,“Thi đua vì cách mạng”. Cùng với thi đua sản xuất, phong trào đóng góp lúa gạo diễn ra sôi nổi. Chỉ trong 7 năm, huyện 10 đã đóng góp gần 150 tấn lương thực cho cách mạng tỉnh nhà .
Thời kì này, phong trào dân công vận chuyển vũ khí, lương thực, thuốc men cho chiến trường, phong trào xung phong tòng quân nhập ngũ cũng được đẩy mạnh. Trong 2 năm 1968 – 1969, Khu 10 đã có 62 thanh niên tình nguyện tòng quân, vào bộ đội chủ lực .
Đầu những năm 1970, địch nhiều lần tiến công vào căn cứ. Dưới sự chỉ đạo của bok Núp, du kích các xã Khu 10 đã đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch, tiêu biểu là trận ở Kông Gbang và dốc Đak Pơ.
Trong công cuộc huy động lực lượng củng cố tuyến đường chiến dịch phía Đông tỉnh vào cuối năm 1972 đầu 1973, 3 xã căn cứ huyện 10 đã huy động hàng trăm dân công tham gia mở hàng chục km đường, vận chuyển hàng trăm tấn hàng hoá, vũ khí, lương thực, thuốc men ra chiến trường.
Nói đến Tây Nguyên không thể không nhắc đến Anh hùng Núp – người con ưu tú, cánh chim đầu đàn của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Cuộc đời cách mạng của Ông đã đi vào lịch sử dân tộc và nhiều tác phẩm Văn học – Nghệ thuật nổi tiếng. Không chỉ Việt Nam biết tên Ông, rất nhiều quốc gia trên thế giới ngưỡng mộ con người đặc biệt này.
Anh hùng Núp còn có tên là Sar, người dân tộc Bahnar, sinh ngày 02/5/1914 tại Đe Dong, xã Nam, huyện An Khê nay là làng Stơr, xã Tơ Tung, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai. Từ những năm trước Cách mạng tháng Tám, với vũ khí thô sơ, Núp đã cùng dân làng đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược, cũng từ đây mô hình “làng kháng chiến” trên chiến trường Gia Lai ra đời.
Với mũi tên bắn Pháp chảy máu, Núp đã làm thay đổi quan niệm, ý chí của người Bahnar về đánh giặc. Trước đây, họ chỉ bất hợp tác với kẻ thù, chứ không dám đánh lại, vì cho rằng: “Bọn này có xe, có máy bay, có súng nhỏ, súng lớn; trên trời nó cũng đi được, dưới nước nó cũng đi được, đánh trúng nó, nó không có máu” . Kể từ đó, dân làng tin theo Núp và hạ quyết tâm đánh giặc.
Cuối năm 1950 đầu năm 1951, thực dân Pháp đã tổ chức nhiều cuộc hành quân càn quét, đốt làng, phá rẫy, cướp lúa… quyết phá cho được làng Stơr. Dưới sự lãnh đạo của Chi bộ Đảng và sự chỉ huy mưu trí của Thôn đội trưởng Núp, dân quân du kích làng Stơr dựa vào núi rừng hiểm trở, sử dụng chiến thuật chiến tranh du kích với chông tre, bẫy đá, cung tên… đã nhiều lần đánh bại quân thù. Chín lần phải dời làng, trải qua nhiều ngày tháng đói cơm, lạt muối, dân làng Stơr dưới sự lãnh đạo của Núp vẫn một lòng tin theo Đảng, “Bok Hồ” và cách mạng. Tinh thần bất khuất ấy được thể hiện trong câu nói của Núp vào năm 1951, khi trả lời Đoàn nghiên cứu của Liên khu V về kinh nghiệm làng kháng chiến Stơr: “Nếu có đánh chết, còn một người cũng chống lại. Nếu chẳng may địch bắt được một vài người, làng không thèm chuộc lại như trước kia … Chết thôi! Không hàng!”.
Gương chiến đấu của làng Stơr, của Núp có sức ảnh hưởng ngày càng rộng trong toàn vùng, tạo thuận lợi trong việc phát động xây dựng bố phòng làng kháng chiến, hình thành ngọn lửa kháng Pháp trên khắp vùng Tây Nguyên.
Năm 1953, Núp dự Đại hội liên hoan chiến sĩ thi đua toàn Liên khu, được tặng thưởng Huân chương Chiến sĩ hạng Nhất và Huân chương Kháng chiến hạng Nhất. Sau nhiều năm đánh Pháp, Núp cùng con trai tập kết ra Bắc học tập và được kết nạp Đảng.
Ngày 31/8/1955, Ông vinh dự được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, trở thành người Tây Nguyên đầu tiên được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý này. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tặng cho Ông một áo lụa và huy hiệu của Người.
Sau khi tiểu thuyết “Đất nước đứng lên” được phổ biến rộng rãi, Anh hùng Núp được cả nước và bạn bè quốc tế biết đến, mến phục. Năm 1964, Ông đã sang thăm đất nước Cuba theo lời mời của Chủ tịch Fidel Castro, và nhận kết tình bằng hữu với vị lãnh tụ này.
Ở một góc độ nào đó, có thể nhận xét rằng, sự nghiệp cách mạng của người Anh hùng Bahnar này, có lẽ sẽ không như những gì đã xảy ra, nếu ngay từ buổi đầu tiên gian khó, Ông không kịp nhận ra một chân lý: Đoàn kết cùng nhau, người Tây Nguyên có thể đánh thắng giặc Pháp. Bắn Pháp chảy máu là một cách nói hình ảnh, thể hiện sự thay đổi nhận thức mang tính bản lề của những người miền núi tự tin đứng dậy chống ách ngoại xâm.
Đến người cán bộ tận tâm với sự nghiệp
Mười năm sau kể từ ngày tập kết ra Bắc, Núp trở lại Tây Nguyên. Sau Đại hội Đảng bộ tỉnh tổ chức đầu tháng 7 năm 1965, ông nhận nhiệm vụ mới trên cương vị Bí thư huyện 10 (Khu 10) .
Giai đoạn 1965 đến 1975, Đảng bộ và Nhân dân các dân tộc Gia Lai bước vào thời kỳ đấu tranh gian khổ, chống các chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Thực hiện chủ trương của Tỉnh uỷ, sự chỉ đạo của Bí thư Núp, quân và dân huyện 10 vừa tăng cường củng cố, xây dựng cơ sở kháng chiến, vừa tích cực tăng gia sản xuất, đóng góp sức người, sức của cho cách mạng tỉnh nhà.
Trong những năm 1965 – 1968, Mỹ – Nguỵ tổ chức nhiều cuộc hành quân lớn, tăng cường sử dụng các loại máy bay chiến lược, ném bom rải thảm khắp vùng, với mục tiêu phá huỷ hoàn toàn căn cứ kháng chiến của tỉnh. Trước tình hình đó, Cấp uỷ Khu 10, Anh hùng Núp ra sức vận động Nhân dân các xã Krong, Kơpier, Lơpa tích cực hưởng ứng phong trào thi đua sản xuất, giết giặc lập công.
Trong sản xuất, Ông chủ trương kêu gọi Nhân dân phải triệt để thực hành tiết kiệm từ lương thực, thực phẩm cho tới các loại rau củ trong rừng. Thậm chí, cây môn nước chỉ được cắt lá không được nhổ, các loại củ từ gai, củ mài, đào xong là lấp xuống cho mọc lại… Đồng thời, động viên Nhân dân ra sức sản xuất, chăn nuôi, bảo vệ hoa màu, thâm canh tăng vụ, với phương châm “tất cả vì sự nghiệp cách mạng, không để bộ đội đói”, “một gùi mình cũng cho, một nắm mình cũng chia”, “quanh năm sản xuất, bốn mùa có ăn”. Chiến dịch trồng mì phát triển rộng khắp vùng căn cứ, Nhân dân các xã coi mì là cây lương thực chiến lược, nguồn thức ăn chủ yếu hàng ngày.
Từ kinh nghiệm chiến đấu thời chống Pháp, Bí thư Núp đã chỉ đạo Nhân dân các làng, xã trong vùng tiếp tục thực hiện chiến tranh du kích, đẩy mạnh vót chông bố phòng, xây dựng và củng cố làng kháng chiến chống lại các cuộc hành quân càn quét của địch. Hàng năm, mỗi người dân 3 xã căn cứ đóng góp hàng ngàn cây chông để bố phòng chống địch .
Tại Đại hội thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh tổ chức giữa năm 1968, Anh hùng Núp, Tỉnh uỷ viên, được bầu giữ chức Phó Chủ tịch. Từ đây, Ông cùng các đồng chí trong Uỷ ban thực hiện củng cố bộ máy chính quyền từ huyện xuống xã, thôn. Sự kiện chính trị này đã khẳng định sự lớn mạnh của lực lượng cách mạng và là niềm tự hào của Nhân dân vùng căn cứ, cổ vũ lòng tin, ý chí đấu tranh cách mạng của Nhân dân các dân tộc Gia Lai.
Trong việc huy động nguồn nhân lực, vật lực phục vụ cho chiến trường thời kì 1968 – 1973, Bí thư Núp có vai trò rất lớn. Dưới sự chỉ đạo của Ông, Chi bộ 3 xã Krong, Kơpier, Lơpa đã tích cực tuyên truyền, vận động Nhân dân tham gia kháng chiến, với tinh thần “Thắt lưng buộc bụng”,“Dốc túi”, “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho mặt trận”,“Thi đua vì cách mạng”. Cùng với thi đua sản xuất, phong trào đóng góp lúa gạo diễn ra sôi nổi. Chỉ trong 7 năm, huyện 10 đã đóng góp gần 150 tấn lương thực cho cách mạng tỉnh nhà .
Thời kì này, phong trào dân công vận chuyển vũ khí, lương thực, thuốc men cho chiến trường, phong trào xung phong tòng quân nhập ngũ cũng được đẩy mạnh. Trong 2 năm 1968 – 1969, Khu 10 đã có 62 thanh niên tình nguyện tòng quân, vào bộ đội chủ lực .
Đầu những năm 1970, địch nhiều lần tiến công vào căn cứ. Dưới sự chỉ đạo của bok Núp, du kích các xã Khu 10 đã đánh bại các cuộc hành quân càn quét của địch, tiêu biểu là trận ở Kông Gbang và dốc Đak Pơ.
Trong công cuộc huy động lực lượng củng cố tuyến đường chiến dịch phía Đông tỉnh vào cuối năm 1972 đầu 1973, 3 xã căn cứ huyện 10 đã huy động hàng trăm dân công tham gia mở hàng chục km đường, vận chuyển hàng trăm tấn hàng hoá, vũ khí, lương thực, thuốc men ra chiến trường.
Anh hùng Núp gặp Bác Hồ, khi Người đến thăm học sinh Trường Dân tộc Trung ương năm 1959. (Ảnh tư liệu)
Không chỉ là người lãnh lãnh đạo tận tâm, Anh hùng Núp còn có khả năng tuyên truyền, dân vận khéo, đặc biệt rất uy tín đối với các già làng. Trong những năm chống Mỹ, có một vấn đề gay cấn đã xảy ra ở làng Đe Tăng Chà , sau phát biểu của cán bộ xã, đội du kích chia làm hai phe tranh cãi. Một bên theo cán bộ xã nói tình hình cách mạng miền Nam đang có nhiều thuận lợi, đang theo đà phát triển đi lên. Còn một bên kiên quyết phản đối cho rằng tình hình cách mạng miền Nam đang có chiều hướng thuận lợi, vì vậy đang đà phát triển đi xuống, họ cho rằng xuống dốc khi nào cũng thuận lợi hơn lên dốc. Việc tranh cãi này đã đến tai bok Núp. Sau khi xuống làng, nghe các bên trình bày, Ông đã hiểu ra vấn đề. Chỉ bằng động tác giương cây ná ngắm bắn cái bảng trên vách nhà rông, Ông hóm hỉnh nói bằng tiếng Bahnar: “Tình hình cách mạng mình có cả lên dông, có cả xuống hố, vì cách mạng giống như cây ná, mũi tên”. Thằng Mỹ – Thiệu ở trên dông, mũi tên cách mạng bay lên dông. Còn nếu thằng Mỹ – Thiệu ở dưới hố, thì mũi tên cách mạng bay xuống hố. Thế… ế ê … mà”. Cả nhà rông lúc ấy ồ lên thán phục . Những chủ trương, đường lối, chính sách của cách mạng được bok Núp tuyên truyền luôn “trúng lỗ tai” bà con dân làng.
Sau giải phóng, Anh hùng Núp lúc này là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh, cùng đồng chí Ngô Thành – Thường trực Tỉnh uỷ (lúc bấy giờ) triển khai tổ chức thực hiện 6 nhiệm vụ tỉnh đã đề ra . Trong đó, vận động định canh, định cư được coi là nhiệm vụ trọng tâm, cùng các nhiệm vụ như: nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh; khôi phục, phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội; ổn định đời sống Nhân dân….
Việc vận động đồng bào Bahnar dời núi cao xuống vùng đất bằng để lập làng, làm ruộng nước gặp nhiều khó khăn vì đó là một việc mà trong tập quán cổ truyền người Bahnar chưa bao giờ làm. Trong cuộc vận động này, một lần nữa vai trò của Anh hùng Núp lại được phát huy khi ông nói với dân làng: “Ông bà mình xưa cũng muốn xuống bằng ở chứ. Nhưng còn thằng Pháp đó, ông bà mình muốn xuống bằng, thằng Pháp nó bắt xâu, bắt thuế, chịu không thấu mới phải vô rừng sâu, lên núi cao ở để trốn cho nó không thấy. Còn bây giờ, Pháp đi rồi, Mỹ cũng đi rồi, đất nước mình là của mình, mình xuống bằng ở… làm ruộng nước ra nhiều lúa hơn làm rẫy, rồi các làng ở gần nhau, các già làng muốn đi thăm nhau, cùng ăn cơm mới, uống rượu, ăn tết… khỏi phải đi xa, trèo cao mỏi cái chân”. Lời của Anh hùng Núp đã làm cho các già làng gật đầu, ưng cái bụng. Cứ thế, Anh hùng Núp đi hết làng này sang làng khác vận động dân làng. Dần dần, các làng của xã Nam đã chịu xuống núi, lập làng trên những vùng đất đã được quy hoạch ven các thung lũng.
Anh hùng Núp từng giữ nhiều cương vị khác nhau như Uỷ viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Gia Lai – Kon Tum, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá VI (năm 1976), Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh Gia Lai – Kon Tum. Đến năm 1998, Ông là Chủ tịch danh dự của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, hạt nhân của trung tâm đại đoàn kết các dân tộc Tây Nguyên. Dù ở cương vị nào, Ông cũng làm tốt vai trò của mình.
Nói về Anh hùng Núp, ông Ngô Thành – nguyên Phó Bí thư Tỉnh uỷ, người đã có thời gian gần 10 năm cận kề cùng bác Núp đã nhận xét: “Bác Núp là người có tinh thần yêu nước, ý chí cách mạng kiên định, sự nhanh trí, dũng cảm. Những yếu tố đó tạo nên sức mạnh, khiến bác làm được những điều phi thường. Trong đời sống thường ngày, bác Núp sống giản dị, khoan dung, chan hoà với mọi người, chế độ đến đâu thì dùng đến đó chứ tuyệt nhiên không hề đòi hỏi gì cho bản thân… Tôi (tức NT) còn mến phục bác ở tinh thần hăng say lao động: “vườn nhà hay vườn cơ quan không khi nào có đất trống, bác trồng đủ thứ ngô, rau, khoai, sắn bơ, chuối… Nhiều hôm lên cơ quan quần áo bác vẫn còn lấm lem nhựa chuối…”. Cuộc đời và sự nghiệp của ông luôn là tấm gương sáng cho mọi người noi theo.
Ngày 10/7/1999, bok Núp trút hơi thở cuối cùng, trở về với thế giới atâu – làng ma. Để nhớ Ông, tại làng Stơr, xã Tơ Tung, huyện Kbang có Nhà lưu niệm Anh hùng Núp; ở Pleiku có tượng đài Anh hùng Núp; nhiều đường phố, trường học cũng đã mang tên Ông…
Trong một bài viết của mình, nhà văn Nguyên Ngọc đã khẳng định: Núp chính là già làng của cả Tây Nguyên. Quả đúng vậy, suốt những năm tháng tuổi trẻ, Ông đã sống cuộc đời của một chiến binh bất khuất trước thực dân Pháp. Mũi tên thuốc độc, hầm chông nhọn hoắt của Ông và dân làng Stơr đã khiến kẻ thù khiếp sợ. Núp chính là linh hồn của cuộc chiến tranh du kích thần thánh ấy. Ảnh hưởng của Núp lan tỏa khắp núi rừng Tây Nguyên và xa hơn thế nữa. Những năm tháng chống Mỹ, Núp là người cán bộ thạo việc và tận tụy. Không một ngày ngơi nghỉ, Ông đã cùng đồng chí, đồng đội của mình mải miết trên những nẻo đường chiến tranh gian khổ, dưới tán rừng Kbang, để giành lấy thắng lợi, cùng cả dân tộc trong niềm vui vỡ òa. Hòa bình lập lại, Anh hùng Núp có rất nhiều đóng góp trong hoạt động xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của tỉnh. Cùng với đó, những năm cuối đời, hình ảnh một người già tầm thước với bộ râu trắng như cước đã khiến Núp được yêu mến rất nhiều. Không thể nói khác, trong bất kì giai đoạn nào của cuộc đời, Núp đều để lại những ấn tượng tốt đẹp. Ông đã sống một cuộc đời nhiều hi sinh mất mát nhưng cũng không ít vinh quang./.
Nguyễn Thị Hoa