Số còn lại thuộc các nhà đầu tư tư nhân chiếm 42% và các dự án BOT chiếm khoảng 10%, nguồn điện nhập khẩu và nguồn khác chiếm khoảng 1%. Trong 11% công suất điện EVN đang nắm giữ trực tiếp tập trung chủ yếu tại các nhà máy thủy điện đa mục tiêu quan trọng như: Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình, Trị An. 26% còn lại là của 3 tổng công ty phát điện (Genco 1, Genco 2 và Genco3) thuộc EVN. Cục Điều tiết điện lực cũng cho hay, các công ty này đang trong quá trình cổ phần, do vậy, tỷ lệ nắm giữ của EVN đang giảm dần khi có đa dạng các thành phần kinh tế tham gia.
Đối với nguồn điện tư nhân, trước năm 2012, tư nhân sở hữu chưa đến 10% nhưng nay tỷ lệ này tăng nhanh, nhờ sự bùng nổ của năng lượng tái tạo sau khi có cơ chế khuyến khích của Chính phủ.
Hiện cơ cấu nguồn điện chia theo các loại hình nguồn ở nước ta bao gồm: thủy điện, nhiệt điện than, nhiệt điện khí, nhiệt điện dầu, năng lượng tái tạo, nguồn nhập khẩu và nguồn khác. Trong đó 2 nguồn điện nền cơ bản, quan trọng nhất vẫn là nhiệt điện và thủy điện. Tính đến cuối năm 2022, công suất điện than tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nhất đạt 33% (25.820 MW); thủy điện chiếm 28% (22.349 MW); năng lượng tái tạo (không gồm thủy điện) chiếm 26% (20.670 MW); điện khí chiếm 11% (8.977 MW); còn lại là các nguồn khác.
Về huy động nguồn điện, lũy kế 9 tháng năm 2023, sản lượng toàn hệ thống đạt 209,9 tỉ kWh, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó tỷ lệ huy động từ nhiệt điện than vẫn ở mức cao nhất với 97,2 tỉ kWh, chiếm 46,3%; thủy điện là 58,05 tỉ kWh, chiếm 27,7%; năng lượng tái tạo huy động 29,13 tỉ kWh, chiếm 13,9% (trong đó điện mặt trời đạt 20,45 tỉ kWh, điện gió đạt 8.01 tỉ kWh); tua bin khí là 20,82 tỉ kWh, chiếm 9,9%; điện nhập khẩu đạt 3,1 tỉ kWh, chiếm 1,5%; nhiệt điện dầu huy động 1,23 tỉ kWh, chiếm 0,6%.
Đáng lưu ý, theo Cục Điều tiết điện lực, công suất đặt của nguồn năng lượng tái tạo xếp thứ 3 trong hệ thống, đạt xấp xỉ 21.000 MW nhưng sản lượng điện huy động chỉ chiếm gần 14% (9 tháng của năm 2023) sản lượng toàn hệ thống do những yếu tố đặc thù của nguồn điện này.