Xuất khẩu số lượng lớn nhưng thương hiệu còn mờ nhạt
Trong những năm qua, Việt Nam luôn nằm trong nhóm dẫn đầu về xuất khẩu gạo. Theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, sản lượng gạo trung bình Việt Nam xuất khẩu mỗi năm từ 6,5-7 triệu tấn; riêng năm 2023 Việt Nam đã xuất khẩu kỷ lục 8,1 triệu tấn gạo, với kim ngạch đạt 4,6 tỷ USD. Bước sang năm 2024, tính từ đầu năm đến ngày 15/2, Việt Nam xuất khẩu 663.209 tấn gạo, trị giá 466,6 triệu USD với giá bình quân 703,5 USD/tấn.
Về thị trường, nếu trước đây Việt Nam chỉ xuất khẩu được đến vài chục nước, thì nay đã lên đến gần 160 quốc gia, vùng lãnh thổ, với thị phần chiếm đến 15% tổng lượng xuất khẩu toàn thế giới.
Đáng chú ý, trong mấy năm trở lại đây gạo Việt còn đạt được thứ hạng cao trong các cuộc thi gạo quốc tế. Đơn cử là gạo ST25 đã được quốc tế xướng danh ngon nhất hai lần tại cuộc thi World’s Best Rice, do The Rice Trader tổ chức (lần đầu vào năm 2019 và lần thứ hai là 2023).
Thế nhưng theo các chuyên gia thì thương hiệu gạo “Made in Việt Nam” vẫn còn khá mờ nhạt trên thị trường quốc tế. Bởi gạo Việt Nam xuất khẩu sang các nước thường được bán dưới thương hiệu của nhà phân phối, khiến người tiêu dùng không nhận biết được nguồn gốc gạo từ Việt Nam. Điển hình như tại thị trường Philippines, thị trường tiêu thụ gạo Việt lớn nhất, nhiều loại gạo khi được xuất khẩu lại được đóng bao bì của quốc gia khác nên khi đến người tiêu thụ cuối cùng, họ không biết đó là gạo Việt Nam.
Trong các chia sẻ gần đây, ông Phùng Văn Thành, Tham tán thương mại Thương vụ Việt Nam tại Philippines cho biết, xuất khẩu gạo Việt Nam sang Philippines năm 2023 đạt 3,1 triệu tấn, chiếm gần 87% tổng lượng gạo nhập khẩu của nước này, tuy giảm 2% so với năm trước nhưng về kim ngạch đạt 1,75 tỷ USD, tăng 17,5%, do giá cao.
Theo ông Thành, gạo của Việt Nam không chỉ phục vụ tiêu dùng, mà còn là mặt hàng quan trọng nhằm bảo đảm an ninh lương thực, ổn định kinh tế vĩ mô cho Philippines. Tuy vậy, các nhà nhập khẩu gạo nước này làm nhãn mác gạo sản xuất tại Việt Nam khá mờ nhạt nên “phải nhìn kỹ mới thấy”. Trong khi đó, gạo Thái Lan, Nhật Bản xuất khẩu vào Philippines được nhà phân phối nước này ghi thương hiệu “Thai Rice” hoặc “Japanese Rice” rất to, rõ trên bao bì.
Không chỉ Philippines, ở Saudi Arabia – một trong những thị trường nhập khẩu gạo Việt Nam nhiều nhất – gạo Việt ở đây dù có giá cả cạnh tranh hơn so với gạo cùng loại từ Thái Lan, song cũng chưa có thương hiệu riêng. Theo đó, hầu hết gạo của Việt Nam vẫn phải xuất khẩu dưới tên của nhà nhập khẩu, nhà phân phối đặt hàng, và họ luôn đề nghị doanh nghiệp Việt Nam đóng gói bao bì, mẫu mã theo quy cách, yêu cầu riêng của họ.
Việc chưa xây dựng được thương hiệu cho gạo Việt cũng như thương hiệu còn mờ nhạt đã làm giảm giá trị gạo Việt Nam, khiến chúng ta không quyết định được giá, mà phụ thuộc hoàn toàn vào giá gạo thế giới. Cụ thể, trong giai đoạn 2017 – 2020, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ ba thế giới về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu (sau Ấn Độ và Thái Lan), nhưng giá gạo xuất khẩu lại thấp nhất trong 5 nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới, chỉ đạt 481,1 USD/tấn.
Gạo Việt có thương hiệu được bán với giá cao ở các nước EU |
Phải có thương hiệu mới bán được giá cao
Sau giai đoạn 2017-2020, từ năm 2021 tới nay gạo xuất khẩu của Việt Nam đã có giá cao hơn và năm 2023, theo số liệu từ Tổng cục Hải quan, giá gạo xuất khẩu của nước ta đã đạt bình quân 703,5 USD/tấn.
Kết quả này một phần do thị trường thế giới có nhu cầu lớn về gạo còn do gạo Việt đã có những thương hiệu được định vị trên thị trường. Câu chuyện của gạo Trung An, Lộc Trời hay Tập đoàn Tân Long là ví dụ. Các doanh nghiệp này đã và đang xuất khẩu gạo vào những thị trường khó tính ở châu Âu như Pháp, Anh… với bao bì “Made in Vietnam” và có giá trị cao trên 1.000 USD/tấn.
Để làm được như vậy, ông Phạm Thái Bình, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Nông nghiệp Công nghệ cao Trung An – nói rằng: Trung An đã tập trung triển khai chương trình cánh đồng mẫu lớn theo phương thức đôi bên cùng có lợi “nông dân sản xuất theo yêu cầu của doanh nghiệp”, mô hình trồng lúa cánh đồng lớn với kiểm soát nghiêm ngặt về nguồn tưới, hóa chất bảo vệ thực vật.
“Thị trường EU là thị trường đặc biệt cao cấp, có thể chấp nhận nhập khẩu gạo có phẩm cấp cao với giá lên đến 2.000 USD/tấn, nhưng bù lại, họ yêu cầu về chất lượng, vấn đề an toàn thực phẩm rất cao”- ông Bình nói và cho biết doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn của châu Âu mới đạt được các hợp đồng bán gạo có giá trị cao suốt thời gian qua.
Còn với Tập đoàn Lộc Trời, gạo Cơm Vietnam Rice của doanh nghiệp này đã xuất hiện ở hệ thống siêu thị châu Âu với giá bán lẻ 4000 Euro/tấn. Ông Nguyễn Duy Thuận, Tổng Giám đốc Công ty CP Tập đoàn Lộc Trời – chia sẻ, nếu ta chỉ là xuất khẩu đơn thuần hoặc có nhà máy mua lúa xay xát thì không thể xây dựng được thương hiệu tại châu Âu. Vì thế để xây dựng được thương hiệu riêng ở châu Âu, Lộc Trời đang xây dựng thương hiệu trên nền tảng chung của thương hiệu gạo Việt Nam là Vietnam Rice. Khi xây dựng được thương hiệu chung thì sẽ xây dựng được thương hiệu riêng của doanh nghiệp, của vùng trồng, của nông dân, giống…
Để xây dựng thương hiệu gạo Việt, các doanh nghiệp cùng nông dân phải chung tay tổ chức vùng nguyên liệu |
Cần chung tay xây dựng thương hiệu
Theo Bộ Công Thương, Việt Nam đã và đang tham gia 19 Hiệp định thương mại (FTA) song phương và đa phương với hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Trong đó có các FTA mang tầm chiến lược như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP), Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam với Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ireland (UKVFTA)…
Việc tham gia các FTA này giúp thương hiệu gạo Việt Nam được biết đến nhiều hơn, thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam dần được mở rộng xuất khẩu sang các thị trường tiêu dùng gạo cao cấp, gạo đặc sản với giá bán so với gạo trắng, góp phần gia tăng giá trị xuất khẩu cho gạo Việt Nam.
Nhận thấy những lợi thế mà FTA mang lại, các doanh nghiệp kinh doanh gạo đã xây dựng vùng trồng, sản xuất gạo giá trị cao, có thương hiệu và từng bước tận dụng cơ hội để xuất khẩu vào châu Âu, Nhật Bản… Tuy vậy, theo ông Phạm Thái Bình, dù doanh nghiệp này đã chú trọng việc xây dựng thương hiệu và một vài thương hiệu Việt đã có mặt trên các thị trường Nhật Bản, Liên minh châu Âu (EU), song số lượng vẫn khiêm tốn. Do đó, để xây dựng thương hiệu gạo phải xuất phát từ cánh đồng, nghĩa là phải tổ chức lại sản xuất, phải có cơ giới hóa, có giống tốt đủ để cung cấp cho sản xuất; công tác bảo quản và chế biến sau thu hoạch cũng cần phải được đầu tư đúng mức… Những việc này, không thể thiếu sự hỗ trợ từ nhà nước, các cấp ngành, các hiệp hội, các nhà khoa học cùng bắt tay và liên kết với doanh nghiệp và nông dân.
“Thật lòng, kể cả doanh nghiệp và nông dân cũng sẽ không thể tự mình xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam, cũng như khó đón lấy cơ hội tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong hội nhập”, ông Bình trăn trở.
Để xây dựng được thương hiệu gạo, ông Bình nêu ý kiến, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp cùng nông dân phải chung tay tổ chức vùng nguyên liệu, xác định nhóm giống chất lượng, sản xuất theo tiêu chuẩn an toàn, có định hướng…
Liên quan đến vấn đề này, GS.TS Võ Tòng Xuân nhấn mạnh muốn giá trị cao, chỉ sự cần cù, chịu thương chịu khó thôi chưa đủ, phải nâng quy trình canh tác lên bước gọi là nghệ thuật, là câu chuyện, là khoa học… để bán sản phẩm không chỉ giá trị dinh dưỡng mà phải bán câu chuyện, bán thương hiệu.
Theo GS.TS Võ Tòng Xuân, câu chuyện xây dựng thương hiệu gạo đã bàn rất lâu nhưng vẫn chưa có những thay đổi lớn. Nguyên nhân bắt nguồn từ 3 bên. Đầu tiên là Nhà nước, cũng chưa thực sự quan tâm đúng mức đến việc quảng bá thương hiệu cho nông sản Việt.
GS.TS Võ Tòng Xuân dẫn chứng, lãnh đạo Malaysia đi đâu cũng quảng bá về giống sầu riêng Musang King ngon nhất thế giới. Trong khi đó với Việt Nam, dù gạo ST25 đã được quốc tế xướng danh ngon nhất nhưng người ngoài ít ai biết giống lúa nào ngon nhất của Việt Nam.
Về phía doanh nghiệp, GS.TS Võ Tòng Xuân ví dụ với gạo ST25, bản thân ông Hồ Quang Cua – “cha đẻ” của giống lúa ST25 – cũng chưa tổ chức được việc trồng trên diện tích rộng, nguyên liệu đồng nhất, bao bì tốt, đẹp…
Bên cạnh đó, theo GS.TS Võ Tòng Xuân, doanh nghiệp không có nguồn nguyên liệu, không có diện tích lớn nên muốn xuất khẩu gạo thì phải mua qua thương lái là chính. Đây là khó khăn lớn để xây dựng thương hiệu gạo của Việt Nam nếu nhà nước không bắt tay mạnh vào việc này. Nếu chúng ta có thể giải quyết những khó khăn đó thì việc xây dựng thương hiệu dễ dàng hơn.
Xây dựng thương hiệu gạo là một nhiệm vụ cấp bách trong tái cơ cấu ngành lúa gạo. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 706/QĐ/TTg ngày 21/5/2015 phê duyệt Đề án phát triển thương hiệu gạo Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Theo Quyết định này, thương hiệu gạo sẽ được phát triển ở các cấp độ: Thương hiệu quốc gia, thương hiệu vùng, địa phương và thương hiệu doanh nghiệp. |