Các vấn đề, nội dung chỉnh sửa, bổ sung, bãi bỏ trong dự thảo Luật Đầu tư công (sửa đổi) là các vấn đề đã chín, đã rõ, cấp thiết, cần tháo gỡ ngay nhằm giải phóng nguồn lực đầu tư công để đẩy mạnh thực hiện, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu của Đại hội Đảng lần thứ XIII, Chiến lược 10 năm 2021-2030 và áp dụng ngay trong xây dựng Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2026-2030.
Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV, dự kiến đầu giờ sáng 29/10 Quốc hội sẽ nghe trình bày Tờ trình về dự án Luật Đầu tư công (sửa đổi). Dự thảo Luật gồm 07 Chương, 109 Điều (sửa đổi 44 điều, trong đó có 16 điều chỉ sửa đổi, bổ sung từ ngữ nhằm quy định rõ, tạo sự thống nhất, đồng bộ trong triển khai, không làm thay đổi nội hàm chính sách so với Luật Đầu tư công năm 2019; bổ sung 15 điều; bãi bỏ 07 điều), với các nội dung chủ yếu để cụ thể hóa 05 nhóm chính sách lớn.
Thể chế hóa các cơ chế, chính sách thí điểm, đặc thù
Với Nhóm chính sách thể chế hóa các cơ chế, chính sách thí điểm, đặc thù đã được Quốc hội cho phép áp dụng, những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu bao gồm: Cho phép tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với tất cả các nhóm dự án (bao gồm cả dự án nhóm B, C); Quy định thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ giao một Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan chủ quản thực hiện dự án trên địa bàn từ 02 đơn vị hành chính cấp tỉnh trở lên; Cho phép bố trí vốn ngân sách địa phương để ủy thác thực hiện các chính sách tín dụng ưu đãi thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội tại địa phương.
Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền
Để tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, một trong những nội dung sửa đổi, bổ sung là phân cấp thẩm quyền điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương (NSTW) giữa các bộ, cơ quan trung ương và địa phương từ Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho Thủ tướng Chính phủ. Cùng với đó, phân cấp thẩm quyền quyết định sử dụng dự phòng chung vốn NSTW, các khoản vốn NSTW chưa phân bổ trong kế hoạch đầu tư công trung hạn từ Quốc hội cho Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Nâng quy mô vốn đầu tư công của dự án quan trọng quốc gia từ 30.000 tỷ đồng trở lên; của dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C với quy mô gấp 2 lần so với các quy định hiện hành. Phân cấp thẩm quyền cho người đứng đầu bộ, cơ quan trung ương quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm A do cơ quan, tổ chức mình quản lý với quy mô vốn dưới 10.000 tỷ đồng; dự án nhóm A từ 10.000 tỷ đồng đến 30.000 tỷ đồng thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ.
Phân cấp thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân các cấp quyết định chủ trương đầu tư dự án nhóm nhóm B, nhóm C do cấp mình quản lý; đồng thời phân cấp thẩm quyền cho Ủy ban nhân dân các cấp điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách địa phương do cấp mình quản lý.
Phân cấp thẩm quyền gia hạn thời gian bố trí vốn NSTW từ Thủ tướng Chính phủ cho cấp quyết định chủ trương đầu tư; vốn ngân sách địa phương từ Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp. Theo đó, đối với vốn NSTW, các dự án nhóm A, nhóm B và nhóm C có tổng mức đầu tư dưới 10.000 tỷ đồng thì gia hạn thời gian bố trí vốn không quá 01 năm; nhóm A từ 10.000 tỷ đồng đến 30.000 tỷ đồng không quá 02 năm. Ngoài thời gian trên, Thủ tướng Chính phủ quyết định gia hạn thời gian bố trí vốn NSTW.
Phân cấp thẩm quyền kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn ngân sách địa phương từ Hội đồng nhân dân cấp tỉnh cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp.
Nâng cao chất lượng chuẩn bị đầu tư
Với Nhóm chính sách về nâng cao chất lượng chuẩn bị đầu tư, khai thác nguồn lực, năng lực thực hiện dự án đầu tư công của địa phương, doanh nghiệp nhà nước, những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu liên quan đến việc cho phép sử dụng nguồn chi thường xuyên và các nguồn vốn hợp pháp khác để chuẩn bị đầu tư dự án; cho phép doanh nghiệp nhà nước là cơ quan chủ quản thực hiện dự án đầu tư công theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ; cho phép ngoài cơ quan chuyên môn thì thêm Ban Quản lý dự án, đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ, cơ quan trung ương, địa phương được lập báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư dự án; cho phép giao nhiệm vụ và kế hoạch vốn hàng năm cho chủ đầu tư dự án không phải là đơn vị trực thuộc.
Thúc đẩy thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn ODA
Liên quan đến Nhóm chính sách này, các nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu bao gồm: Bổ sung quy định về việc cho phép giải ngân kế hoạch vốn nước ngoài nguồn NSTW và kế hoạch vốn cho vay lại của ngân sách địa phương được giải ngân theo quy định của pháp luật về quản lý nợ công, không phụ thuộc vào tỷ lệ cấp phát và cho vay lại; Đơn giản hóa nội dung liên quan đến Đề xuất dự án, bổ sung hoạt động lập Đề xuất dự án vào nhiệm vụ chuẩn bị đầu tư và bố trí vốn cho nhiệm vụ lập Đề xuất dự án; Phân cấp thẩm quyền, đơn giản hóa trình tự, thủ tục phê duyệt, điều chỉnh chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư dự án sử dụng vốn nước ngoài; Bổ sung quy định về thời gian bố trí kế hoạch vốn của các dự án sử dụng vốn nước ngoài và giải ngân kế hoạch vốn nước ngoài.
Cùng với đó, làm rõ quy định cơ quan gửi Đề xuất dự án sử dụng vốn vay ODA, vốn vay ưu đãi do Công ty con của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ nắm giữ 100% vốn điều lệ làm chủ đầu tư; bổ sung quy định dừng sử dụng vốn ODA ở từng giai đoạn của chương trình, dự án; Đơn giản hóa việc thực hiện dự án sử dụng vốn ODA viện trợ không hoàn lại.
Đơn giản hóa trình tự, thủ tục
Tại Nhóm chính sách về đơn giản hóa trình tự, thủ tục; bổ sung, làm rõ các khái niệm, thuật ngữ, quy định, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, các nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu bao gồm: Đơn giản hóa trình tự, thủ tục lập kế hoạch đầu tư công trung hạn và hàng năm; không quy định phải có báo cáo riêng đối với việc thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn; Quy định danh mục dự án Chính phủ báo cáo Quốc hội để ban hành kế hoạch đầu tư công trung hạn là danh mục dự kiến; bổ sung quy định khái niệm thời gian bố trí vốn thực hiện dự án.
Bên cạnh đó, quy định một số nội dung cụ thể nhằm thống nhất cách hiểu, cách triển khai như: các trường hợp điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án; khái niệm nợ đọng xây dựng cơ bản; phạm vi dự án đầu tư công và nhiệm vụ chi thường xuyên; cập nhật đối tượng sử dụng vốn đầu tư công theo quy định tại các Luật Nhà ở, Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Hợp tác xã… Bổ sung quy định trình tự, thủ tục xử lý khi phát sinh yếu tố dẫn đến thay đổi phân loại dự án.
Ngoài ra, quy định hạn mức 20% đối với các dự án vắt qua hai kỳ trung hạn (khoản 2 Điều 89 Luật hiện hành) không áp dụng đối với dự án quan trọng quốc gia và bổ sung quy định áp dụng theo từng nguồn vốn ngân sách trung ương hoặc ngân sách địa phương. Đối với vốn ODA, chỉ áp dụng hạn mức 20% đối với vốn ODA của cả nước.
Trường hợp vượt hạn mức 20% nêu trên thì cấp có thẩm quyền báo cáo Thủ tướng Chính phủ đối với vốn NSTW, Hội đồng nhân dân các cấp đối với vốn ngân sách địa phương cho phép phê duyệt chủ trương đầu tư, nhưng không vượt quá hạn mức 50%.
Chính phủ đã chỉ đạo rà soát, tiếp thu tối đa ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Tài chính, ngân sách của Quốc hội, ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp, ý kiến của các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, các đối tượng liên quan và nhà tài trợ, tổ chức quốc tế, bảo đảm bám sát chủ trương của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Quốc hội về tiếp tục chuyển đổi phương thức quản lý từ tiền kiểm sang hậu kiểm, từ quản lý sang kiến tạo phát triển, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính và đáp ứng yêu cầu phát triển, thực hiện 03 đột phá chiến lược, nhất là đột phá về kết cấu hạ tầng trong thời gian tới.
Nguồn: https://thoibaonganhang.vn/du-an-luat-dau-tu-cong-sua-doi-ky-vong-giai-phong-nguon-luc-dau-tu-cong-157193.html