Ủy ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục phiên họp thứ 32 với việc xem xét về chủ trương đầu tư Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam phía Tây đoạn Gia Nghĩa (Đắk Nông) – Chơn Thành (Bình Phước). Theo quy hoạch, đường bộ cao tốc Gia Nghĩa – Chơn Thành thuộc tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Tây. Đây là trục giao thông quan trọng, kết nối vùng Tây Nguyên với vùng Đông Nam Bộ, vùng Tây Nam Bộ và TP. Hồ Chí Minh. Việc đầu tư cao tốc Gia Nghĩa – Chơn Thành sẽ giải quyết điểm nghẽn về hạ tầng giao thông, tạo không gian phát triển mới, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh khu vực vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên.
Theo quy hoạch, mạng lưới đường bộ cao tốc gồm 41 tuyến với tổng chiều dài khoảng 9.014 km. Đến nay, cả nước đã đưa vào khai thác khoảng 1.892 km đường cao tốc, đang xây dựng 1.600 km, đang chuẩn bị đầu tư khoảng 1.267 km; trong đó tuyến cao tốc Bắc – Nam phía Đông sẽ cơ bản hoàn thành năm 2025.
Về phạm vi, quy mô đầu tư, theo quy hoạch, cao tốc Gia Nghĩa – Chơn Thành có quy mô 6 làn xe. Giai đoạn phân kỳ đầu tư với chiều dài khoảng 128,8 km (đi qua địa phận tỉnh Đắk Nông 27,8 km, qua địa phận tỉnh Bình Phước 101 km), quy mô 4 làn xe hoàn chỉnh, giải phóng mặt bằng thực hiện một lần theo quy mô quy hoạch (6 làn xe).
Sơ bộ tổng mức đầu tư khoảng 25.540 tỷ đồng, bao gồm: 12.770 tỷ đồng vốn nhà nước và 12.770 tỷ đồng vốn do nhà đầu tư thu xếp. Phương án triển khai chia thành 5 dự án thành phần, trong đó: Dự án thành phần 1 (cao tốc đoạn Gia Nghĩa – Chơn Thành) đầu tư theo phương thức PPP (loại hợp đồng BOT; sơ bộ thời gian thu phí hoàn vốn khoảng 18 năm). Các dự án thành phần 2, 3, 4, 5 thực hiện giải phóng mặt bằng, xây dựng đường gom và cầu vượt ngang qua địa phận tỉnh Đắk Nông, tỉnh Bình Phước triển khai theo hình thức đầu tư công.
Tại phiên họp, đại diện Chính phủ kiến nghị Quốc hội chấp thuận bố trí 8.770 tỷ đồng từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi thường xuyên của ngân sách trung ương năm 2022 và 1.500 tỷ đồng từ nguồn dự phòng của kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021- 2025 để đầu tư dự án; cho phép kéo dài thời gian giải ngân đến hết năm 2026 đối với số vốn bố trí từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi thường xuyên của ngân sách trung ương năm 2022 để thực hiện dự án…
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nhất trí sự cần thiết đầu tư dự án nhằm cụ thể hóa Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030 và các Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Việc đầu tư dự án sẽ từng bước hoàn thành mạng lưới cao tốc theo quy hoạch, mở ra không gian phát triển mới cho các địa phương và tăng cường liên kết vùng nói chung và liên kết nội vùng nói riêng, tạo động lực, sức lan tỏa, thuận lợi kết nối với Cảng Hàng không quốc tế Long Thành và cảng Cái Mép – Thị Vải, phục vụ phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, giúp tăng cường việc bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, có ý kiến đề nghị cần đánh giá kỹ về khả năng bố trí nguồn lực, đánh giá tác động của việc triển khai cùng lúc nhiều dự án hạ tầng đối với khả năng giải ngân, hấp thụ vốn, sự cân đối và hiệu quả trong phân bổ nguồn lực, năng lực quản lý, khả năng gây ra tình trạng khan hiếm và tăng giá nguyên vật liệu, để bảo đảm hiệu quả trong việc sử dụng vốn đầu tư. Một số ý kiến đề nghị bổ sung đánh giá tác động của dự án đến phát triển kinh tế – xã hội của địa phương để làm rõ hơn sự cần thiết, cấp thiết của dự án.
Về quy mô đầu tư, Ủy ban Kinh tế cơ bản nhất trí với quy mô đầu tư của dự án, tuy nhiên một số ý kiến đề nghị cân nhắc mở rộng đầu tư đoạn kết nối 2 km của dự án theo quy mô 4 làn xe tiêu chuẩn TCVN 5729:2012, để bảo đảm kết nối đồng bộ với đường cao tốc TP. Hồ Chí Minh – Chơn Thành đang triển khai đầu tư, phát huy hiệu quả đầu tư (giảm thiểu chi phí trong quá trình nâng cấp, mở rộng sau này).
Về phương thức đầu tư, Chính phủ kiến nghị đầu tư dự án theo phương thức đối tác công tư. Tuy nhiên, Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung các cơ sở để bảo đảm tính khả thi cho dự án, tránh trường hợp không lựa chọn được nhà đầu tư hoặc không huy động được vốn tín dụng cho dự án, dẫn đến phải chuyển đổi sang hình thức đầu tư công làm kéo dài thời gian, giảm hiệu quả đầu tư. Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn tính hấp dẫn của dự án đối với các nhà đầu tư khi các chỉ số về hiệu quả tài chính của dự án là không cao.
Theo Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, sơ bộ tổng mức đầu tư dự án khoảng 25.540 tỷ đồng. Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ phân tích rõ hơn các chi phí thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đặc biệt chi phí liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng rừng và đất lúa của dự án.
Đối với vốn ngân sách trung ương (NSTW) khoảng 10.536,5 tỷ đồng, có ý kiến cho rằng việc bố trí 1.500 tỷ đồng từ nguồn dự phòng của Kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn NSTW giai đoạn 2021 – 2025 là không khả thi. Theo quy định của Luật Đầu tư công năm 2019, số vốn Kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021 – 2025 chỉ được thực hiện đến ngày 31/01/2026. Dự án dự kiến đến hết năm 2026 mới hoàn thành, nên đề nghị Chính phủ giải trình làm rõ việc bố trí nguồn vốn để thực hiện dự án trong năm 2026.
Về số vốn còn thiếu 266,5 tỷ đồng, Ủy ban Kinh tế đề nghị làm rõ nguyên nhân, sự phù hợp của việc điều chuyển vốn đã bố trí từ Dự án xây dựng đường giao thông phía Tây Quốc lộ 13 kết nối Chơn Thành – Hoa Lư cho dự án, đồng thời cam kết việc điều chuyển này không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện và hoàn thành Dự án xây dựng đường giao thông phía Tây Quốc lộ 13 kết nối Chơn Thành – Hoa Lư.
Đối với vốn ngân sách địa phương khoảng 2.233,5 tỷ đồng, Ủy ban Kinh tế cho rằng, để bảo đảm tiến độ, chất lượng cho dự án, đề nghị các địa phương cam kết chịu trách nhiệm trước Chính phủ, Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội về việc bố trí nguồn ngân sách địa phương cho dự án thực hiện bảo đảm tiến độ.
Đối với vốn do nhà đầu tư thu xếp khoảng 12.770 tỷ đồng, chiếm 50% sơ bộ tổng mức đầu tư dự án (chiếm 65% sơ bộ tổng mức đầu tư dự án thành phần 1 theo phương thức đối tác công tư, để bảo đảm tính khả thi cho dự án, Ủy ban Kinh tế đề nghị Chính phủ cần thống nhất chặt chẽ với nhà đầu tư quan tâm trong việc thu xếp vốn cho dự án, tránh phải điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án từ đầu tư theo phương thức đối tác công tư sang đầu tư công.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ khẳng định, đây là dự án rất quan trọng và các đoàn Quốc hội đã đề xuất nhiều lần. Về chủ trương là hết sức cần thiết.
“Lúc đầu là PPP nhưng do nguồn vốn quá ít nên Chính phủ và Bộ Giao thông đã thiết kế 50-50, trong 50% vốn của nhà nước có phần vốn của địa phương, một phần của trung ương và một phần từ tiết kiệm chi. Đến nay cơ bản đã đảm bảo. Tôi tán thành và nhất trí cao chủ trương đầu tư dự án này…”, Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh.