Trà Đạo Nhật Bản được xem là một trong ba nghệ thuật cổ điển thuộc tinh hoa người Nhật bên cạnh thưởng hương kodo và cắm hoa kado. Trà đạo có nguồn gốc từ Thiền tông Phật giáo vào năm 815. Lúc bấy giờ, nhà sư Eichu trở về từ Trung Quốc đã đặc biệt chuẩn bị sencha cho Thiên hoàng Saga. Tại Trung Quốc, trà là một loại thức uống có lịch sử hơn một nghìn năm.
Từ việc đơn giản uống trà, chuyển sang cách pha và uống trà, rồi nghi thức thưởng thức trà cho đến khi đúc kết thành trà đạo, đây là một tiến trình không ngừng nghỉ mà cái đích cuối cùng người Nhật muốn hướng tới. Hòa, Kính, Thanh, Tịch là bốn nguyên tắc cơ bản của Trà đạo. Phật giáo thường dùng thuật ngữ “ngón tay chỉ mặt trăng”. Suy rộng ra, Trà đạo là con đường mà đi hết con đường đó sẽ đến nơi có “trà vừa ngon vừa không ngon”. Cũng như nhiều thứ cần phải rèn luyện, học tập, trà đạo luôn gắn liền với thực hành. Khác với trông chờ vào đâu đó, trà đạo thuộc về bên lối sống “tự làm chủ bản thân”.
Lịch sử và văn hoá trà Việt:
Việt Nam có nền văn hoá trà gắn bó song hành với nền nông nghiệp lúa nước trải qua hơn 5000 năm. Cây trà ban đầu được xem như thảo mộc có công dụng chữa bệnh, giải độc, lâu dần trở thành thức uống thường xuyên của người Việt. Mật độ trà Việt Nam phủ đều từ các tỉnh phía Bắc với hàng nghìn cây trà cổ thụ hơn 500 năm đến các tỉnh phía Nam với nhiều giống trà mới, điển hình như tỉnh Lâm Đồng. Tổng diện tích trồng trà trên lãnh thổ Việt Nam 130.000 ha, với năng suất hơn 5000 tấn trà khô mỗi năm, với sản lượng xuất khẩu thô đứng thứ 5 toàn cầu.
Ở Việt Nam, đạo – thần – hồn của trà Việt gắn với hoàn cảnh của một đất nước đã trầm mình trải qua bao cuộc bể dâu của thiên tai, địch hoạ mang đặc trưng của sự hào sảng. Tính dung hợp của người Việt tạo ra sự đa thức trong việc thưởng trà, từ sự chân phương, giản đơn nhất đến sự cầu kỳ, phức tạp. Mỗi kiểu thức gắn với nhân sinh quan, đề cao nghĩa khí, sự chân thành, đối nhân xử thế của con người, điển hình như câu nói “trà nô tửu tướng” thể hiện tâm thế phụng sự, đức tính khiêm cung của người Việt trong văn hoá trà của mình. Bản sắc văn hoá trà Việt được thể hiện rõ nét qua văn hoá của Trà Thức Việt Nam mà thương hiệu Đôi Dép muốn tôn vinh và hiển dương.
“Việt Trà Thức” chính là sự gói gọn của bản sắc dân tộc về tính đa thức và niệm thức sâu sắc trong đối nhân xử thế của người Việt. Sự đa dạng của các kiểu thức trong thưởng trà của người Việt được thể hiện qua Ngũ thức Việt trà:
Mộc thức: Là kiểu uống trà phổ biến của người Việt khi không quá đặt nặng tính cầu kì của việc thưởng trà. Ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào, theo cách giản tiện nhất, người Việt đều có thể dùng trà, miễn sao có sự hiện diện của trà. Mộc thức chính là hình thái thưởng trà bình dân, mở đầu cho các kiểu thức khác phát triển. Thông qua mộc thức càng khẳng định cây chè đã tồn tại mật thiết với người Việt từ ban đầu. Với mộc thức, kiểu cách, loại trà không còn quan trọng. Mộc thức tượng trưng cho sự thuần chất của người Việt.
Văn thức: Là cách thức thưởng trà ở mức độ cầu kỳ. Kiểu thức này đòi hỏi người thưởng trà có sự am hiểu nhất định về trà, từ cung cách uống cho đến loại trà uống. Người thưởng trà theo lối văn thức có sự cảm quan về trà ở mức độ cao thấp khác nhau tùy vào sự am hiểu của mỗi người nhưng nhìn chung có sự thấu đạt sâu sắc về trà. Văn thức tượng trưng cho tính thẩm mỹ và sự vi tế của người Việt.
Ngự thức: Là cách thưởng trà cung đình dành cho những bậc vua chúa, hoàng tộc khi xưa. Tuy là bậc có quyền lực cao nhưng quan điểm thưởng trà của bậc vương tôn thế tộc khi xưa lại lấy sự khiêm cung và tính phụng sự làm nền tảng. Ngày nay, ngự thức trà được dùng trong tiệc trà có tính chất ngoại giao, quan hệ quốc tế để tôn vinh những giá trị văn hoá Việt. Ngự thức tượng trưng cho giá trị tinh hoa của văn hoá trà Việt.
Tĩnh thức: Là cách thức thưởng trà hướng đến sự an tĩnh, giàu tính chiêm nghiệm. Người thưởng trà thông qua kiểu thức này muốn có khoảng lặng nội tâm để suy tưởng về cuộc sống, từ đó có những đúc rút giá trị riêng cho bản thân. Tĩnh thức còn là cách thức uống trà hướng đến sự an định thân tâm, bình lặng trong tâm hồn, quay về bên trong và thực hành chánh niệm bản thân. Tĩnh thức biểu tượng cho sự thuần khiến tâm hồn người Việt.
Thư thức: Là thưởng trà kết hợp với việc đọc sách, thưởng lãm nghệ thuật làm phong phú trí tuệ và tâm hồn người Việt. Thư thức biểu tượng cho trí tuệ của người Việt. Trà thức Việt Nam thông qua năm thức cơ bản đã truyền tải được đạo – thần – hồn, là bản sắc văn hoá thưởng trà của người Việt. Tuỳ đối tượng, bối cảnh, không gian, thời gian mà việc kết hợp giữa các thức được linh hoạt mà không nhất thiết cứng nhắc theo hình thức nào, bởi suy cho cùng, dù theo cách nào thì người Việt quan niệm về trà là thức uống phổ biến mà ở đó gửi gắm giấc mơ ngàn đời của cha ông về khát khao hoà bình, ổn định và phát triển. Văn hoá trà Việt gắn với nền văn hoá trọng trách, trà chính là nhân tố kết nối con người với nhau cùng chia sẻ và gắn vác trách nhiệm chung.
Về tinh hoa trà cụ Việt:
Gốm: https://youtu.be/mB-_FWKMnLw?si=IXb4eTwDkkls81Xk
Sứ: Sứ Trương Chi, chén uống trà làm từ sứ xương với chất cao lanh từ vùng đất Tổ nổi tiếng vua Hùng. Sở dĩ có tên sứ Trương Chi là gắn với câu chuyện tình buồn từ thời Hùng Vương về chàng lái đò trên sông Tiêu Tương tên là Trương Chi và cô công chúa Mỵ Nương. Kết thúc câu chuyện tình buồn này là khi Mỵ Nương uống chén trà làm từ khối ngọc từ thân tâm của chàng Trương Chi khi thác đi vì quá tương tư Mỵ Nương. Sứ Trương Chi có đặc trưng là ngoài trắng muốt nhưng khi rọi đèn ánh lên màu xanh ngọc từ cao lanh Phú Thọ. Khi đổ trà vào chén, miết trên thành chén sẽ nghe âm thanh vang vọng như tiếng sáo tài hoa của chàng lái đò Trương Chi.
Tinh hoa “Quốc Ẩm Việt Trà”:
Trà tham gia đối ẩm là trà Đại Hoàng Bào, do nghệ nhân thương hiệu Đôi Dép tinh chế. Trà pha ra có sắc vàng óng ánh như hoàng bào của vua. Nguyên liệu lại được làm từ vùng chè oolong nổi tiếng King Lộ thuộc tỉnh Lâm Đồng. Nghệ nhân Đôi Dép đã chế biến loại trà này hoàn toàn khác biệt và đột phá so với các phương pháp làm trà truyền thống đã tồn tại hàng nghìn năm. Điều này tạo nên sự trọn vẹn và tinh tế về hương, sắc, vị, hình của Trà. Tuy trà được lên men sâu nhưng lá trà sau khi phá lại có màu xanh mướt mát như lá chè tươi còn trên cành. Trà có rất nhiều tầng hương từ nồng nàn của hương hoa cho đến vị nhẹ nhàng của trái cây chín. Vị thơm của trái cây và các loại hoa lan tỏa khắp hơi thở, thanh tao, mềm mại, béo, ngọt và hoàn toàn không có vị chát đắng. Trà Đại Hoàng Bào khi lưu trữ trong thời gian dài (từ 5 năm – 8 năm) không những không bị hư mà còn tự chuyển hoá nội chất tạo những hương vị đặc trưng nồng nàn mà không thể nhầm lẫn với các loại trà nào khác.
Không gian Trà Thức mà thương hiệu Đôi Dép đã thiết kế gồm: Cây tre Việt Nam biểu tượng văn hoá Việt Nam, hoa sen là quốc hoa của Việt Nam, khu vực chính là bàn pha trà với các trà cụ thuần Việt và người pha là trà nương của thương hiệu Đôi Dép. Để trở thành trà nương của thương hiệu Đôi Dép, các cô gái phải đáp ứng 3 tiêu chí: đầu tiên phải pha và thử nếm được trên 20 loại trà, hiểu sâu sắc về đặc trưng từng loại trà; thứ hai, phải hiểu lịch sử, văn hoá trà Việt, có kiến thức văn hoá sâu rộng, có thể chia sẻ và truyền cảm hứng được cho khách thưởng trà; thứ ba tinh thông ít nhất một nội dung trong ba nội dung của trà lễ gồm: trà ca, trà vũ và trà cầm.
Vừa qua tại lễ Giỗ Tổ Vua Hùng tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Thương hiệu Đôi Dép cùng Ban tổ chức đã dâng “Quốc Ẩm Việt Trà” lên Vua Hùng cùng các vị tiền nhân. Trà Tổ Ân Di Diệp được làm với số lượng vô cùng hạn chế để dâng lên Quốc tổ Hùng Vương vào mùng 10 tháng 3. Trà sau dâng cúng lễ sẽ gửi tặng lại cho du khách để được may mắn, mạnh khỏe, bình an và thịnh vượng khi có dịp đến tế lễ giỗ Quốc Tổ. |
PV
Nguồn: https://www.congluan.vn/doi-am-tra-dao-nhat-ban-va-tra-thuc-viet-nam-post302482.html