Doanh nghiệp đã quan tâm hơn đến phòng vệ thương mại
Liên quan đến công tác phòng vệ thương mại của doanh nghiệp trong nước tại thị trường Hoa Kỳ, ông Đỗ Ngọc Hưng – Tham tán thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cho biết, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chủ lực và lớn nhất của Việt Nam trong thời gian vừa qua.
Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, trong 8 tháng năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ đạt khoảng 73 tỷ USD và thặng dư thương mại khoảng 66 tỷ USD, đưa Việt Nam lên thứ ba về thặng dư thương mại với Hoa Kỳ chỉ sau Trung Quốc và Mexico.
Kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ra các nước trên thế giới và chiếm hơn 30% kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN. Điều này thể hiện Việt Nam luôn là đối tác quan trọng, bền vững của Hoa Kỳ.
Ông Đỗ Ngọc Hưng – Tham tán Thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ chia sẻ về những tác động tích cực của hệ thống cảnh báo sớm trong phòng vệ thương mại |
Song nhìn thẳng vào thực tế, Tham tán Thương mại, Trưởng cơ quan Thương vụ tại Hoa Kỳ cho rằng, các doanh nghiệp xuất khẩu gặp không ít những rủi ro về phòng vệ thương mại.
Theo thống kê, tỷ lệ các vụ việc phòng vệ thương mại của Hoa Kỳ áp dụng với Việt Nam chiếm khoảng 53% tổng số các vụ việc phòng vệ thương mại, đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam.
“Các nguy cơ phòng vệ thương mại ngày càng lớn hơn” – ông Hưng cảnh báo và cho biết, các doanh nghiệp nội địa của Hoa Kỳ ý thức rất rõ về quyền lợi cũng như các công cụ của mình khi hàng hóa nhập khẩu cạnh tranh khốc liệt, gây ra tổn hại, tổn thương đối với ngành sản xuất trong nước. Họ cũng biết cách sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại, để bảo vệ lợi ích nếu bị kiện ở Hoa Kỳ. Do vậy, các vụ việc ngày càng tăng trong thời gian vừa qua.
Thực tế, ngoài Bộ Thương mại Hoa Kỳ, các cơ quan khác như Ủy ban Thương mại Quốc tế, cơ quan hải quan hay biên phòng Hoa Kỳ đều có thể điều tra các vụ việc phòng về thương mại. Tại Hoa Kỳ, tính đến tháng 10/2023, các vụ việc phòng vệ thương mại của hàng hóa xuất khẩu Việt Nam chiếm đến 58/235 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại, các mặt hàng cũng ngày càng mở rộng, đa dạng và không phải các ngành hàng xuất khẩu chủ lực của ta.
Qua công tác theo dõi thị trường, Thương vụ tại Hoa Kỳ cho biết, các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam ngày càng quan tâm đến các vụ việc phòng vệ thương mại cũng như hệ thống cảnh báo sớm.
“Hệ thống cảnh báo sớm rất quan trọng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp được tìm hiểu về các quy định pháp luật của Hoa Kỳ về phòng vệ thương mại sớm” – Tham tán thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ đánh giá và cho biết thêm, hệ thống cảnh báo sớm cung cấp thêm thời gian để doanh nghiệp có thể chuẩn bị các nguồn lực cần thiết để ứng phó vụ kiện khi xảy ra. Bởi trên thực tế, khi bị kiện, các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư rất nhiều công sức và nguồn lực con người, thời gian, thậm chí là tài chính để tham gia trong suốt quá trình điều tra vụ việc – thông thường là khoảng 12 tháng.
Mặt khác, theo ông Đỗ Ngọc Hưng, hệ thống cảnh báo sớm còn giúp doanh nghiệp có thêm thời gian để sắp xếp hồ sơ, giấy tờ, sổ sách và tài liệu, nhất là kế toán, giấy tờ xuất nhập khẩu để kịp thời cung cấp tài liệu kiểm chứng cho cơ quan chức năng của Hoa Kỳ nếu bị kiện.
Xu hướng của các vụ việc phòng vệ trong thời gian tới
Thông tin về xu hướng của các vụ việc phòng vệ thương mại tại thị trường Hoa Kỳ trong thời gian tới đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, ông Đỗ Ngọc Hưng cho biết, tại Hoa Kỳ hiện có 3 xu hướng, cụ thể:
Thứ nhất, các cơ quan của Hoa Kỳ đang tăng cường sử dụng các biện pháp chống lẩn tránh thuế để áp dụng với hàng hóa nhập khẩu, với các lý do: Thời gian điều tra nhanh và yêu cầu điều tra đơn giản hơn; Mức thuế áp dụng thường rất cao và có thể không bị khởi kiện do WTO chưa quy định cụ thể về nội dung này. Do đó, nhóm hàng có nguy cơ bị kiện cao thường là các nhóm hàng đã bị Hoa Kỳ điều tra và áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại trước đó với các nước khác.
Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam ngày càng quan tâm đến các vụ việc phòng vệ thương mại cũng như hệ thống cảnh báo sớm. Ảnh TTXVN |
Thứ hai, Bộ Thương mại Hoa Kỳ gần đây thường tự khởi xướng điều tra vụ việc. Trước đây, chủ yếu các vụ việc bắt đầu từ đơn kiện của nguyên đơn là nhà sản xuất nội địa, tuy nhiên, trong thời gian qua, Bộ Thương mại Hoa Kỳ cũng đã chủ động khởi xướng một số vụ việc mà không cần đến đơn kiện của doanh nghiệp tại đây.
Tuy nhiên, ông Đỗ Ngọc Hưng cho rằng, nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ tự khởi xướng thì có xu hướng thường là những mặt hàng có liên quan đến vấn đề an ninh quốc gia.
Ví dụ như mặt hàng nhôm và thép, năm 2018 Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã căn cứ vào Mục 232 của Đạo luật về mở rộng thương mại 1962, coi mặt hàng nhôm thép thuộc nhóm liên quan đến vấn đề an ninh năng lượng. Nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ tự khởi xướng điều tra thì thường sẽ không tập trung vào các nhóm mặt hàng tiêu dùng.
“Xu hướng trên một mặt thuận lợi là giúp doanh nghiệp trong nước có thể cảnh báo trước và chuẩn bị một cách bài bản hơn, có sự đầu tư theo dõi về nguồn lực, thời gian cho các mặt hàng cảnh báo bị kiện; nhưng cũng sẽ gây khó khăn trong quá trình xử lý vụ việc do những vụ việc này thường rất phức tạp” – Tham tán thương mại, Trưởng Cơ quan Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ nhận định.
Gia tăng sự cạnh tranh về chất lượng, công nghệ
Đối với thị trường Hoa Kỳ, để giữ vững lợi thế cũng như hạn chế các rủi ro khi xuất khẩu sang thị trường này, ông Đỗ Ngọc Hưng cho rằng, các doanh nghiệp cần chủ động có thời gian để chuẩn bị chính chính thức cũng như chuẩn bị đầy đủ các tài liệu, thông tin, hồ sơ, sổ sách, giấy tờ bởi ở một góc độ nào đó thì doanh nghiệp chính là người hiểu rõ hơn ai hết về sản phẩm của mình.
Thứ hai, cần phối hợp chặt chẽ với Cục Phòng vệ thương mại (Bộ Công Thương), Hiệp hội ngành hàng trong việc theo dõi, cập nhật cũng như chia sẻ thông tin và chuẩn bị các bước trong quá trình ứng phó. Nếu được đưa vào danh sách có nguy cơ bị khởi kiện, doanh nghiệp cũng cần chủ động trang bị các kiến thức pháp luật về phòng vệ thương mại.
Thứ ba, để gia tăng khả năng sản xuất và xuất khẩu bền vững, xuất khẩu xanh sang thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước cần xem xét đầu tư nghiên cứu gia tăng hàm lượng giá trị của sản phẩm. Chú trọng đến việc giảm phụ thuộc cạnh tranh về giá mà chuyển sang cạnh tranh về chất lượng, công nghệ, cũng như đảm bảo việc truy xuất nguồn gốc đối với các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất sản phẩm.