LTS: Công nghiệp văn hóa hiện đang là “con gà đẻ trứng vàng” của nhiều nền kinh tế thế giới. Nói về công nghiệp văn hóa là đề cập đến các ngành công nghiệp sản xuất ra các sản phẩm mang tính nghệ thuật và sáng tạo, có bản chất vật thể hoặc phi vật thể; thông qua khai thác những giá trị văn hóa cùng những sản phẩm và dịch vụ có tính trí tuệ, có ý nghĩa xã hội và văn hóa để thu về những nguồn lợi kinh tế.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự phát triển của các quốc gia ngày càng ảnh hưởng lẫn nhau, các ngành công nghiệp văn hóa chính là một tài sản chiến lược trong chính sách ngoại giao, hợp tác quốc tế và giúp củng cố tính độc đáo của quốc gia. Công nghiệp văn hóa đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy bản sắc văn hóa và hiện đại hơn cho đất nước.
Dù là lĩnh vực còn khá mới mẻ, tuy nhiên, với lợi thế về bề dày lịch sử, văn hóa, được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều danh lam, thắng cảnh, hệ thống di tích, di sản dày đặc, nhiều lễ hội đặc sắc, bằng những nỗ lực trong thời gian qua, Việt Nam đã đạt nhiều kết quả về công nghiệp văn hóa và được các tổ chức thế giới cũng như bạn bè quốc tế đánh giá là một quốc gia của châu Á có nhiều tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này.
Chủ trương đúng đắn
Nhận thức rõ những tiềm năng, lợi thế, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành và triển khai hiệu quả nhiều chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật để phát triển văn hóa nói chung và công nghiệp văn hóa nói riêng.
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998 của Trung ương xác định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hóa nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội…”.
Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 đề ra mục tiêu, yêu cầu: “Xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh, đẩy mạnh phát triển công nghiệp văn hóa, tăng cường quảng bá văn hóa Việt Nam”.
Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Chính phủ ban hành năm 2016 đã khẳng định quan điểm: “Các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ các doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa”.
Chiến lược xác định 12 lĩnh vực của Công nghiệp văn hóa gồm: Quảng cáo, Kiến trúc, Phần mềm và các trò chơi giải trí, Thủ công mỹ nghệ, Thiết kế, Điện ảnh, Xuất bản, Thời trang; Nghệ thuật biểu diễn, Mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm; Truyền hình và phát thanh; Du lịch văn hóa.
Mục tiêu chủ yếu của Chiến lược đến năm 2030, phấn đấu doanh thu của các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 7% GDP và tiếp tục tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, trong đó đóng góp của một số ngành cụ thể: Ngành điện ảnh đạt khoảng 250 triệu USD (phim Việt Nam đạt khoảng 125 triệu USD); Ngành nghệ thuật biểu diễn đạt khoảng 31 triệu USD; Ngành mỹ thuật, nhiếp ảnh và triển lãm đạt khoảng 125 triệu USD; Ngành quảng cáo (trên truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí, internet và quảng cáo ngoài trời) đạt khoảng 3.200 triệu USD; Ngành du lịch văn hóa chiếm 15 – 20% trong tổng số khoảng 40.000 triệu USD doanh thu từ khách du lịch.
Chiến lược cũng đặt ra mục tiêu phát triển đa dạng, đồng bộ và hiện đại tất cả các ngành công nghiệp văn hóa một cách bền vững, được ứng dụng công nghệ tiên tiến; các sản phẩm, dịch vụ văn hóa có thương hiệu uy tín trong khu vực và quốc tế, đạt tiêu chuẩn của các nước phát triển và tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị sản phẩm, dịch vụ văn hóa toàn cầu.
Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Khẩn trương triển khai phát triển có trọng tâm, trọng điểm ngành công nghiệp văn hóa và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam”.
Tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu 6 nhiệm vụ lớn, trong đó: “khẩn trương phát triển các ngành công nghiệp văn hoá, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh”.
Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam được tổ chức ngày 22/12/2023, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định: “Với sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của các cấp, các ngành, các địa phương, thời gian qua các ngành công nghiệp văn hóa dần trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng; sự đầu tư nguồn vốn vào các ngành công nghiệp văn hóa đã thúc đẩy thị trường công nghiệp văn hóa có những bước tiến mới, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội”.
Còn nhiều dư địa phát triển
Phác họa lại bức tranh sau hơn 7 năm triển khai Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng cho biết với sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, nỗ lực của các bộ, ngành, địa phương, sự đồng hành của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, công tác phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã đạt được một số kết quả nổi bật.
Trong đó, về đóng góp của các ngành công nghiệp văn hóa vào GDP, năm 2015, các ngành công nghiệp văn hóa đóng góp 2,68% GDP. Sau 3 năm 2016, 2017, 2018 triển khai Chiến lược 1755: năm 2018, 12 ngành công nghiệp văn hóa đóng góp khoảng 3,61% GDP. Trong giai đoạn từ năm 2018 – 2022, giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đóng góp ước đạt 1,059 triệu tỷ đồng (44 tỷ USD).
Trong 5 năm qua, bình quân tốc độ tăng trưởng về số lượng các cơ sở kinh tế hoạt động trong các ngành công nghiệp văn hóa đạt 7,21%/năm. Chỉ tính riêng năm 2022, thống kê có khoảng 70.321 cơ sở đang hoạt động có liên quan đến ngành công nghiệp văn hóa và bình quân lực lượng lao động thu hút khoảng 1,7 triệu đến 2,3 triệu người, tăng 7,44%/năm.
“So sánh số liệu thống kê của chúng ta với tình hình chung trên thế giới, có thể thấy, Việt Nam đang là quốc gia tầm trung về phát triển công nghiệp văn hóa và còn nhiều dư địa phát triển” – Bộ trưởng cho biết.
Về đóng góp của các ngành công nghiệp văn hóa đối với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho hay, với đặc trưng sáng tạo và công nghệ, công nghiệp văn hóa đang mang đến sự thay đổi cơ cấu của các ngành có liên quan, tiếp đó là sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế. Sự xuất hiện của các trung tâm công nghiệp văn hóa, các thành phố sáng tạo đã và đang làm thay đổi cơ cấu vùng kinh tế.
Các doanh nghiệp văn hóa, bao gồm cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Sự thay đổi này đã tạo nên các kết quả đáng ghi nhận ở cả 12 ngành (giai đoạn 2018-2022: Đối với kiến trúc: giá trị gia tăng bình quân tăng 7,37%; Đối với thiết kế: Giá trị gia tăng của bình quân tăng 6,36%; Đối với thời trang: giá trị gia tăng bình quân tăng 7,3%; Đối với điện ảnh: giá trị gia tăng bình quân 7,94%…)
Về công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách, theo Bộ trưởng, trong giai đoạn 2018 – 2022, các bộ, ngành đã rà soát, đề xuất Quốc hội, Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam; cải thiện điều kiện kinh doanh sản phẩm, dịch vụ văn hóa, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp văn hóa ở Việt Nam: Luật Du lịch 2017; Luật Kiến trúc 2019; Luật Xây dựng sửa đổi 2020; Luật Điện ảnh 2022, Luật Sở hữu trí tuệ 2022…
Về đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức, các bộ, ngành và địa phương đã tích cực triển khai phổ biến, hướng dẫn, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ và người dân về ý nghĩa, tầm quan trọng của Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam. Một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển công nghiệp văn hóa, như: Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng…
Trong công tác phát triển thị trường các ngành công nghiệp văn hóa, Bộ trưởng cho biết, nhiều địa phương đã xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất để phục vụ hoạt động liên quan đến công nghiệp văn hóa tại các điểm có di sản, di tích quốc gia đặc biệt, các bảo tàng, nhà văn hóa, làng nghề thủ công truyền thống, khu vui chơi giải trí…
Bên cạnh đó, các hoạt động ngoại giao văn hóa, chương trình, đề án về kết nối, giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa được tổ chức thường niên đã thúc đẩy các hoạt động giới thiệu, xúc tiến, quảng bá sản phẩm công nghiệp văn hóa, thu hút sự quan và nguồn đầu tư cho các ngành công nghiệp văn hóa, từ đó tăng cường sự liên kết, hợp tác giữa Việt Nam với các đối tác, doanh nghiệp nước ngoài.
Có thể khẳng định, những “con số biết nói” nêu trên đã chứng minh rằng, công nghiệp văn hóa là ngành kinh tế có khả năng cạnh tranh ngày càng cao ở cả thị trường trong và ngoài nước, đồng thời cũng cho thấy, ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đang khai thác các nguồn lực khá thành công và dần thu hẹp khoảng cách, khả năng cạnh tranh với các quốc gia trên thế giới./.
Ông Choi Seung Jin – Giám đốc Trung tâm Văn hóa Hàn Quốc tại Việt Nam: “Việt Nam đã nhận thức đầy đủ về tiềm năng của ngành công nghiệp văn hóa và hiện đang triển khai các chính sách đa dạng để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030, tỉ lệ đóng góp của ngành công nghiệp văn hóa trong GDP đạt mức 7%. Đây quả thực là một định hướng rất đáng kỳ vọng. Tôi nhận thấy rằng Việt Nam cũng giống như Hàn Quốc, đang sở hữu rất nhiều các điều kiện thuận lợi có thể đảm bảo sự thành công của ngành công nghiệp văn hóa.
Việc có bề dày lịch sử văn hóa lâu đời là động lực quan trọng cho sự phát triển của ngành công nghiệp văn hóa. Bởi từ bề dày lịch sử đó sẽ cho ra đời các câu chuyện đầy sáng tạo và các chất liệu nguồn, và chúng đều có thể trở thành nguồn lực cho ngành công nghiệp văn hóa. Thứ hai, Việt Nam sở hữu nguồn lực từ dân số trẻ và có nhịp độ phát triển rất năng động. Dân số trẻ là lực lượng rất thích hợp với quá trình phát triển của ngành công nghiệp văn hóa, một ngành công nghiệp đầy sáng tạo. Cuối cùng là thế mạnh của Việt Nam trong lĩnh vực công nghệ thông tin – truyền thông (ICT). Xu hướng hiện nay là phát triển ngành công nghiệp văn hóa trong sự kết hợp với khoa học kỹ thuật ICT, khoa học kỹ thuật số. Do đó, tôi cho rằng đây cũng chính là một trong những điều kiện thuận lợi của Việt Nam để phát triển ngành công nghiệp văn hóa.
Tôi rất kỳ vọng vào những hỗ trợ tích cực về mặt chính sách sẽ phát huy tối đa các tiềm năng này, từ đó, xây dựng thành công nền công nghiệp văn hóa Việt Nam có đủ năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế”./.
Bài 2: Hiện thực hóa khát vọng trở thành trung tâm công nghiệp không khói hàng đầu cả nước