ANTD.VN – Mỗi dự án điện khí, điện gió ngoài khơi cần ít nhất 7-8 năm mới có thể hoàn thành và đi vào vận hành, do vậy cần có cơ chế chính sách riêng để đảm bảo các dự án này được thực hiện đúng tiến độ, không “lỡ hẹn” mục tiêu Quy hoạch điện VIII đã đề ra.
Bộ Công Thương họp tháo gỡ khó khăn cho dự án điện gió ngoài khơi |
Nhiều thách thức với điện gió ngoài khơi
Theo Quy hoạch điện VIII thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 500/QĐ-TTg ngày 15/5/2023, tổng công suất đặt các nguồn điện đến 2030 là 150,489 GW (gần gấp đôi tổng công suất đặt hiện nay, khoảng 80 GW).
Trong đó tổng công suất các nguồn điện khí phải đầu tư xây dựng mới là 30.424 MW. Tổng công suất các nguồn điện gió ngoài khơi khoảng 6.000 MW và có thể tăng lên trong trường hợp công nghệ phát triển nhanh, giá điện và chi phí truyền tải hợp lý). Hai nguồn này chiếm khoảng 50% tổng công suất điện cần bổ sung.
Đồng thời việc phát triển nguồn điện khí và điện gió ngoài khơi sẽ giúp Việt Nam thực hiện được cam kết trung hoà carbon đến năm 2050. Các dự án điện khí là những nguồn điện chạy nền, linh hoạt, ổn định sẽ hỗ trợ cho các dự án điện gió và điện mặt trời để đảm bảo an ninh cung cấp điện.
Tại cuộc họp mới đây do Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên chủ trì để tìm giải pháp tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch điện VIII, các chuyên gia nhận định, để bảo đảm cung ứng điện và an ninh năng lượng quốc gia đến năm 2030 là một thách thức rất lớn, bởi vừa phải tăng rất nhanh về quy mô, vừa phải chuyển đổi mạnh về cơ cấu để tiệm cận mục tiêu trung hòa các bon và phát triển cân đối các vùng miền, cân đối giữa nguồn và truyền tải.
Đối với dự án điện gió ngoài khơi, thời gian thực hiện cần khoảng từ 6-8 năm kể từ lúc khảo sát. Do đó, việc triển khai các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi để đáp ứng tiến độ đưa vào vận hành trước năm 2030 là thách thức không hề nhỏ.
Cần cơ chế đảm bảo cho nhà đầu tư trong dài hạn
Theo Quy hoạch điện VIII, tổng quy mô công suất các dự án nhà máy điện khí được đầu tư xây dựng và đưa vào vận hành trước năm 2030 là 30.424 MW, gồm 10 dự án sử dụng khí khai thác trong nước với tổng công suất 7.900 MW và 13 dự án sử dụng LNG với tổng công suất 22.824 MW.
Đối với các dự án điện khí LNG, còn 3 vướng mắc cần được tháo gỡ mà chưa được pháp luật hiện hành quy định rõ ràng, bao gồm: Bao tiêu sản lượng khí tối thiểu; Cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện; Cơ chế mua khí phù hợp với xu hướng chung của thế giới.
Đối với các dự án điện gió ngoài khơi, chuyên gia chỉ ra 4 vướng mắc còn tồn tại liên quan đến: Cấp có thẩm quyền giao khu vực biển, cho phép hay chấp thuận cho các tổ chức sử dụng khu vực biển để thực hiện các hoạt động đo đạc, quan trắc, điều tra, thăm dò, khảo sát nhằm phục vụ lập dự án điện gió ngoài khơi;
Quy hoạch không gian biển quốc gia chưa được phê duyệt nên chưa có cơ sở triển khai thực hiện Quy hoạch điện lực; Thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư; Điều kiện tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Ông Nguyễn Duy Giang – Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Điện lực Dầu khí Việt Nam – CTCP (PV Power) cho biết, mặc dù đã được gỡ khó nhưng quá trình triển khai thực tế vẫn còn vướng mắc.
“Điều đòi hỏi lớn nhất của các nhà cho vay, các nhà tài trợ là phải có Qc (sản lượng điện hợp đồng) dài hạn cho dự án. Đấy là điều quan trọng nhất để đảm bảo dòng tiền trả nợ”- ông Nguyễn Duy Giang nói.
Ngoài ra, giá khí đầu vào cho các dự án hiện đang neo theo giá thế giới, do đó cần có một cơ chế cho việc chuyển giá khí vào trong giá điện.
“Nếu các vấn đề không được tháo gỡ dứt điểm, không có những cơ chế về quy trình dài hạn và chuyển giao khí thì dự án có thể bị các nhà cho vay từ chối bất kỳ lúc nào, gây tổn thất cho không chỉ chủ đầu tư mà tổn thất cho cả hệ thống điện quốc gia và có thể ảnh hưởng đến việc thực hiện Quy hoạch điện VIII”- ông Nguyễn Duy Giang cho biết thêm.
Ông Phạm Văn Phong – Tổng giám đốc PV GAS cũng cho rằng, cần có cơ chế về việc mua bán khí LNG cho các nhà máy điện, luật hóa việc xác định chi phí dự trữ, phân phối và vận chuyển khí đến nơi tiêu thụ và cam kết khối lượng tiêu thụ khí tối thiểu để đảm bảo thu hồi vốn cho nhà đầu tư.
Theo PGS.TS. Bùi Xuân Hồi – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Điện lực miền Bắc, các dự án điện khí có nhiều điểm khác biệt so với những nguồn điện khác, đặc biệt là vấn đề giá thành và đầu vào.
“Do đó cần phải có cơ chế đặc biệt đối với các nguồn điện này. Điều này đòi hỏi quyết tâm của Chính phủ trong việc xây dựng các cơ chế đặc thù cho các nguồn điện đặc thù để có thể tham gia hòa lưới và phát điện”- PGS. TS Bùi Xuân Hồi nói.
Theo các chuyên gia, để tháo gỡ khó khăn cho điện gió ngoài khơi, các Bộ, ngành liên quan cần báo cáo Chính phủ để kiến nghị với Quốc hội có Nghị quyết về các cơ chế, chính sách đặc thù cho việc triển khai các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi, đáp ứng tiến độ theo Quy hoạch điện VIII.
Riêng dự án Điện gió ngoài khơi cần đưa vào danh mục dự án quan trọng quốc gia cần được áp dụng cơ chế, chính sách đặc biệt.
Sau cuộc họp với các doanh nghiệp vừa diễn ra, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã giao các đơn vị trực thuộc tổng hợp báo cáo Chính phủ để kiến nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết tháo gỡ những vướng mắc đối với quy định của pháp luật hiện hành trong triển khai các dự án điện khí và điện gió ngoài khơi theo Quy hoạch điện VIII trước ngày 30-12-2023.