Bài học từ SVB
Theo các đề xuất mới nhất, tỉ lệ bộ đệm vốn trong ngành Ngân hàng Mỹ cần tăng thêm 16%. Ngoài ra, một số quy định trong ngành ngân hàng cũng sẽ được sửa đổi, bổ sung để phù hợp với các nguyên tắc được thống nhất trên thế giới.
Gói giải pháp này được gọi là “Basel 3 Endgame”, tiêu chuẩn triển khai để tối ưu quản trị rủi ro. Nếu được áp dụng, các ngân hàng sẽ mất nhiều năm để xây dựng lại bộ đệm tài chính.
Lợi ích của việc cải cách thể hiện rõ nhất đối với khối ngân hàng vừa và nhỏ. Ngân hàng Thung lũng Silicon, có tài sản trị giá 212 tỉ USD, sụp đổ vào tháng 3 sau khi chịu tổn thất lớn về danh mục trái phiếu khi lãi suất tăng. Là ngân hàng có số vốn dưới 700 tỉ USD, SVB được miễn công bố trái phiếu ra thị trường. Khi khách hàng ồ ạt rút tiền khỏi SVB, ngân hàng này phải bán trái phiếu với mức lỗ, bộ đệm vốn sau đó mới bị phát hiện giả mạo.
Đề xuất mới hạ ngưỡng tài sản xuống 100 tỉ USD, yêu cầu các ngân hàng có quy mô như SVB định giá chính xác ít nhất một lô trái phiếu. Nhiều tổ chức tín dụng sẽ phải tích lũy vốn, giúp ngăn chặn tình trạng bất ổn lặp lại.
Các ngân hàng lớn tại Mỹ không hề gặp khó khăn do có mức vốn hóa lớn, lượng khách hàng trung thành, lãi suất cho vay cao. Trong báo cáo tài chính công bố được công bố ngày 13.10, JPMorgan, Bank of America và Citigroup đều ghi nhận tỉ suất lợi nhuận ròng tăng trong quý III. Điều này có nghĩa, ngân hàng càng lớn, càng được hưởng lợi trong hoàn cảnh lãi suất cao.
Giải pháp căn cơ
Việc hướng tới bộ đệm vốn an toàn hơn là điều đáng mong đợi đối với hệ thống ngân hàng tại Mỹ. Các ngân hàng lớn đã chống chọi tốt với nguy cơ sụp đổ vào mùa xuân năm 2023. Bởi nếu những tổ chức tín dụng này phá sản, hệ quả kéo theo có thể sẽ là thảm họa kinh tế. Những người nộp thuế cho nhà nước phải gánh chịu chi phí lớn nhất. Theo một ước tính, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-2009 đã khiến mỗi người Mỹ mất 70.000USD thu nhập trong suốt cuộc đời của họ. Các vụ sụp đổ ngân hàng gây thiệt hại nghiêm trọng đến mức các nghiên cứu đã nhấn mạnh về chi phí và lợi ích của vốn, ngay cả khi hiệp định Basel 3 được thực hiện.
Không có gì ngạc nhiên khi các chủ ngân hàng phản đối việc tăng thêm vốn. Điều này giống như bị buộc phải mua bảo hiểm cho những sự kiện chưa chắc có thể xảy ra. Tuy nhiên, toàn bộ xã hội được hưởng lợi nhiều khi có “bảo hiểm” đó. Sức mạnh của nền kinh tế Mỹ hiện tại là thời điểm tốt để giúp cho hệ thống ngân hàng của nước này trở nên an toàn hơn, vì việc xây dựng các vùng đệm an toàn khó hơn việc duy trì.
Ngay cả khi các đề xuất được ban hành, những khó khăn mà về ngân hàng Mỹ phải đối mặt vẫn chưa kết thúc. Cách đơn giản nhất để tạo vốn là giữ lại lợi nhuận thay vì trả cổ tức. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng nhỏ đang phải vật lộn với tình trạng lợi nhuận bị thu hẹp vì phải trả lãi nhiều hơn để giữ chân khách hàng hoặc phụ thuộc vào các khoản vay ngắn hạn với lãi suất cao. Ví dụ, việc sử dụng chương trình cho vay khẩn cấp được cho là tạm thời tại Cục Dự trữ Liên bang đã tăng lên trong vài tháng qua. Số dư chưa thanh toán là 109 tỉ USD.