I. Tìm hiểu chung về tác phẩm Một thời đại trong thi ca (Hoài Thanh)
1. Tác giả Hoài Thanh
a. Tiểu sử
– Hoài Thanh (1909 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.
– Quê ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.
– Trước cách mạng:
+ Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học và bị thực dân Pháp bắt giam.
+ Tham gia cách mạng Tháng Tám và làm chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế.
– Sau cách mạng Tháng Tám:
+ Chủ yếu hoạt động trong ngành Văn hóa – nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam…
b. Sự nghiệp văn học
– Các tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Nói chuyện thơ kháng chiến(1950)…
– Phong cách phê bình:
+ Là nhà lý luận phê bình xuất sắc của nền Văn học Việt Nam hiện đại: “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”
+ Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế gần gũi và giàu cảm xúc, hình ảnh. Có sự kết hợp giữa tính khoa học với tính văn chương logic, độc đáo.
– Năm 2000 ông được nhận giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm Một thời đại trong thi ca
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác
– Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam 1932 – 1941.
– Công trình này mang tính chất của một bản “tổng kết” về phong trào Thơ mới ngay trong thời kì phát triển đỉnh cao của nó.
b. Thể loại và phương thức biểu đạt
– Thể loại: Văn nghị luận
– Phương thức biểu đạt: Nghị luận
c. Bố cục
– Phần 1 (từ đầu -> phải nhìn vào đại thể): Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.
– Phần 2 (tiếp -> rẻ rúng đến thế): Tinh thần thơ mới: chữ tôi
– Phần 3 (còn lại): Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.
d. Giá trị nội dung
– Chỉ ra được nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới: cái tôi và nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên hồi bấy giờ.
– Đánh giá được thơ mới trong cả ý nghĩa văn chương và xã hội.
e. Giá trị nghệ thuật
– Kết hợp một cách hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.
– Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ; kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm cũng như nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic.
– Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo, tài tình có khả năng khơi gợi và tạo sức cuốn hút lớn….
g. Tóm tắt
Văn bản được chia làm ba phần chính. Mở đầu văn bản tác giả Hoài Thanh đề cập đến cái khó khăn trên con đường đi tìm tinh thần trong thơ mới. Đối với tác giả điều này vô cùng khó khăn, trong cả việc đưa ra và so sánh các tác phẩm và đặt chúng trong bối cảnh của thời đại. Và tác giả đã giúp chúng ta nhận diện thơ mới và thơ cũ một cách khái quát nhất. Sau khi tìm được tinh thần thơ mới, tác giả đi vào cốt lõi làm nên tinh thần thơ mới đó chính là cái “tôi” cá nhân. Khi cái “tôi” xuất hiện thì quá xa lạ vì họ đã quá quen thuộc với cái “ta” chung và khá rộng. Vả lại cái “tôi” xuất hiện trong bối cảnh tăm tối của đất nước, cả bầu trời của dân tộc đang bị bao phủ bởi bóng ngoại xâm. Ông cũng nói đến cái tôi xuất hiện bởi các nhà tri thức tiểu tư sản như: Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,.. lúc bây giờ cũng đi vào bế tắc, mất niềm tin khi đứng trước bối cảnh thời đại. Và những nhà thơ mới họ tìm lại niềm tin bằng cách gửi vào tình yêu tiếng việt. Họ tìm vào quá khứ, vào dĩ vãng để quên đi hiện tại bi thương.
II. Dàn ý chung phân tích “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh
A. Mở bài
“Một thời đại trong thi ca” là bài tiểu luận mở đầu cuốn sách “thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh xuất bản năm 1942. Qua công trình nghiên cứu phê bình công phu này với cách nhìn khoa học, tiến bộ; cách viết tinh tế, tài hoa; cách lập luận sắc sảo; tác giả đã giúp người đọc hiểu được tinh thần của thơ mới.
B. Thân bài
Theo Hoài Thanh, tinh thần Thơ mới nằm trong một chữ “tôi”. “Cái tôi” của Thơ mới đối lập với “cái ta” của thơ cũ- cả mặt tích cực và mặt bi kịch của nó.
* “Cái tôi” trong Thơ mới
– “Cái tôi” là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định, do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, éo buộc nên cái bản ngã ấy không được bộc lộ, nhà thơ phải nói lên tiếng nói của “cái ta- đạo lí” chung của thời đại ấy. Đó là thơ phi ngã.
– Khi “cái tôi” ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. “Cái tôi”- đó chính là “khát vọng được thành thực” như Hoài Thanh đã nói, là sự tự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội.
– Giờ đây, cái tôi có được “cái sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm nhất đán tung bờ vỡ đê” và khi được giải phóng thì nó sẽ “làm giàu cho thi ca” bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
* Mặt tích cực của “cái tôi” trong Thơ mới
– Nếu xã hội Việt Nam từ xưa không có các nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình thì cái tôi Thơ mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó bỡ ngỡ, như lạc loài nơi đất khách.
– Nếu thơ cũ mang cái bản sắc cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả thì cái tôi Thơ mới mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: Quan niệm cá nhân (sự ý thức về bản thân).
– Nếu các nhà văn, nhà thơ cũ không một lần nào dám dùng chữ “tôi” để nói chuyện với mình hay với tất cả mọi người, không tự xưng, ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người thì cái tôi, vố cái nghĩa tuyệt đối của nó, làm nhiều người khó chịu nhưng ngày càng mất dần cái vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen.
* Mặt bi kích của “cái tôi” trong Thơ mới
– “Cái tôi” của các nhà Thơ mới thật đáng thương và tội nghiệp vì nó đã đem đến cho tâm hồn hộ nỗi buồn lạnh và bơ vơ, muốn thoát đi đâu cũng không được. Bởi họ là những thi nhân mất nước, đang sống trong cuộc đời mỏi mòn, tù túng lúc bấy giờ, lại mang trong mình “cái tôi” cô đơn, bé nhỏ của các thi sĩ lãng mạn.
– Bi kịch ấy được làm nổi bật bằng sự tương phản, đối laoaj giữa con đường muốn thoát thân với sự thực hiẹn hữu của cuộc đời các nhà Thơ mới lúc bấy giờ: thoát lên tiên >
– Từ đó dẫn đến nhận định của tác giả “Thật chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế”. Đây là nỗi buồn thơ của một thế hệ thi nhân mất nước mang cái tôi cô đơn, nhỏ bé đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng của Thơ mới giai đoạn này.
– Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt, vào tình yêu quê hương, vào tinh thần nòi giống. Các nhà Thơ mới đã tìm thấy một chỗ dựa tin cậy của tinh thần nòi giống của các thể thơ xưa, của tiếng việt… để vin vào những điều bất diệt ấy mà hi vọng, mà tin tưởng…
C. Kết bài
Bài văn đã khẳng định sự thắng lợi của Thơ mới đã thay thế cho thơ cũ và mở ra “một thời đại trong thi ca” như là một tất yếu của tiến trình lịch sử văn học Việt Nam đồng thời ca ngợi và ủng hộ sự giải phóng của cái tôi và những mặt tích cực của nó. Với cách nhìn nhận khoa học, tiến bộ, cách viết tài hoa, tinh tế, tác giả đã nêu một cách đầy đủ và thuyết phục về tinh thần thơ mới.
III. Viết đoạn văn ngắn phân tích “Một thời đại trong thi ca” của Hoài Thanh
1. Nội dung cốt lõi nhất của bài Một thời đại trong thi ca
Nội dung của cuốn sách tổng kết những thành tựu của phong trào Thơ mới và giới thiệu các tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Hoài Thanh theo lối phê bình ấn tượng, “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, ngòi bút của ông tinh tế, tài hoa, hóm hỉnh.
Mở đầu Thi nhân Việt Nam là bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca. Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc phần cuối của bài viết này. Nội dung chính của đoạn trích là xác định “tinh thần thơ mới”, được triển khai thành ba ý nhỏ: Trình bày nguyên tắc để minh định tinh thần của thơ cũ và thơ mới (không căn cứ vào cục bộvà cái dở mà căn cứ vào đại thể và cái hay). Xác định tinh thần của thơ mới là chữ “tôi” đối lập với chữ “ta” vàcho thấy thái độ của xã hội khi ý thức cá nhân mới trỗi dậy. Chỉ ra sự vận động của cái “tôi” và việc giải quyết bi kịch thời đại của nó bằng cách “dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt”.
2. Hãy phân tích sự thắng lợi của Thơ mới trong Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh
Hoài Thanh (1909-1982) là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuât sắc ở nước ta. “Thi nhân Việt Nam” là tác phẩm đặc sắc nhất, tiêu biểu nhất của ông viết về thơ mới, xuất bản năm 1942. “Một thời đại trong thi ca” là bài tiểu luận mở đầu công trình, sau đó là phần giới thiệu và tuyển thơ của 44 nhà thơ mới.
Sự thắng lợi của thơ mới là một trong những vấn đề được Hoài Thanh nói đến một cách sâu sắc, tinh tế trong bài tiểu luận cuốn “Thi nhân Việt Nam”.
“Một thời đại vừa chẵn mười năm” đó là phong trào thơ mới – thơ tiền chiến -từ năm 1932 – 1941. Giữa thơ mới và thơ cũ đã đấu trang giằng co, gắt gao, kéo dài trong một thời gian dài. Thơ cũ là thơ trung đại, thơ cổ điển Việt Nam, phần lớn viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, theo thi pháp trung đại. Trong cuộc đấu tranh ấy, “một bên giành quyền sống, một bên ,giữ vững quyền sống”.
Đã có biết bao bài luận chiến, bút chiến về thơ cũ và thơ mới. Lê Trang Kiều, Lưu Trọng Lư,… được coi là “những người tả xung hữu đột nơi chiến trường để đem lại sự toàn thắngcủa thơ mới. Nhưng trong thắng lợi ấy, Hoài Thanh khẳng định “trước hết là công những nhà thơ mới”.
Hoài Thanh đã nêu lên một sự thật là không so sánh các nhà thơ mới với Nguyễn Du để “xem ai hơn ai kém”, bởi vì “Đời xưa có thể có những bậc kì tài mà đời nay không sánh kịp”. Từ chân lí ấy, ông đưa ra một tiêu chí để so sánh hai thời đại thi ca: “Đừng lấy một người sánh lấy một người. Hay sánh thời đại với thời đại”.
Thơ cũ – thơ cổ điển, thơ trung đại – phát triển trong mười thế kỉ có bao thành tựu rực rỡ, bao thi hào như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,… nhưng Hoài Thanh đã khẳng định: “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này”. Thời đại này là thời đại thơ mới “vừa chẵn mười năm” (1932- 1941).
Tiếp theo, tác giả “Thi nhân Việt Nam” viết một cách tài hoa, tinh tế về một số thi sĩ tiêu biểu để chứng minh sự “phong phú” của thời đại thơ mới:
“Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ào nảo như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu”.
Bảy mươi năm sau, đọc “Một thời đại trong thi ca”, ta càng thấy rõ nhận định, nhận xét, đánh giá của Hoài Thanh là hoàn toàn chính xác. Những gương mặt thi sĩ được Hoài Thanh nói đến nay đã qua đời nhưng sự nghiệp thơ ca của họ vẫn còn nguyên giá trị, đã góp phần tạo nên giá trị và sự phong phú của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Với sự thẩm thơ tinh tế, ông đã chỉ ra vẻ đẹp riêng, bản sắc riêng của từng nhà thơ mới. Mỗi chữ ông dùng đã chỉ ra rất đúng mỗi hồn thơ: “rộng mở, mơ màng, hùng tráng, trong sáng, ảo não, quê mùa, kì dị, thiết tha, rạo rực, băn khoăn”. Không có lối nói chung chung với nhiều sáo ngữ như một số bài giới thiệu thơ, bình thơ trên báo chí hiện nay.
Như mỗi loài hoa trong rừng hoa đều có vẻ đẹp riêng, hương sắc riêng, mỗi nhà thơ mới cùng có cá tính sáng tạo riêng, đúng như Hoài Thanh đã nói: “Từ người này sang người khác sự cách biệt rõ ràng”. Ông đã chỉ ra nguyên nhân sâu xa “làm giàu cho thơ ca”, cho thơ mới là “sự giải phóng!”: “Cá tính con người bị kiềm chế trong bao nhiêu bỗng được giải phóng”. Một nguyên nhân nữa là “ảnh hưởng phương Tây, hay đúng hơn là ảnh hưởng Pháp”.
Hoài Thanh đã có một cách nói, cách viết thâm trầm, dung dị mà tài hoa. Có lúc ta tưởng như ông đang thổ lộ, tâm tình, tâm sự với độc giả về sự thắng lợi của thơ mới. Ông cho biết đã theo dõi thơ mới trong nhiều năm, đã đọc trên một vạn bài thơ mới để viết nên “Thi nhân Việt Nam”.
Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, nhận định và đánh giá chuẩn xác, dùng từ, đặt câu, nêu dẫn chứng, giọng điệu thẩm bình đều thể hiện một văn phong đẹp, một cốt cách đẹp.
Hoài Thanh đã giúp chúng ta một cách nhìn đúng đắn, và trân trọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới trong một thời đại thơ ca 1932-1941.
IV. Danh sách đề thi phân tích Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh
1. Nghệ thuật lập luận trong bài viết “Một thời đại trong thi cao” (Hoài Thanh)
Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Ông được bạn học yêu thích và ngưỡng mộ ở lĩnh vực phê bình thơ. “Một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” – một công trình phê bình văn học xuất sắc trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh đề cập đến nhiền vấn đề Thơ Mới. Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.
Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề “tinh thần thơ mới”. Đây là luận điểm đặc sắc và kết tinh nhiều tinh hoa văn phê bình của Hoài Thanh. Luận điểm được triển khai thành ba nội dung chính.
Thứ nhất, ông nêu ra nguyên tắc chung cho việc định nghĩa của mình: Chỉ căn cứ vào “cái hay”, không căn cứ vào “cái đó” ; chỉ căn cứ vào “đại thể”, không căn cứ vào “tiếu tiết”. Theo quan niệm của Hoài Thanh (cũng là nguyên tắc phổ biến khi xem xét một hiện tượng văn học), chỉ có “cái hay”, cái “đại thể” mới đủ tư cách đại diện cho một thời đại thi ca. “cái dở”; cái “tân tiết” không đủ tư cách đại diện cho nghệ thuật và cho một thời đại lớn của nghệ thuật. Hoài Thanh nêu định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh: tinh thần thơ cũ gồm trong chữ “ta” ; tinh thần thơ mới gồm trong chữ “tôi”. Nhà phê bình có đề cập đến chỗ giống nhau nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này.
Thứ hai, tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “tôi” và “ta”; chữ “ta” và biểu hiện của chữ “ta” cùng số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia.
Thứ ba, ông chỉ rõ chữ “tôi” và biểu hiện của chữ “tôi” cùng số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.
Qua ba bước trên, người đọc nhận thấy nhà phê bình đã tuân theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước lập luận với trật tự như vậy rất đảm bảo tính lôgíc của tư duy. Vì vậy khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.
Tinh thần thơ mới gói gọn trong một chữ “tôi”. “Cái tôi” của các nhà thấy mới là bàn ngã của mọi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định (đặc biệt là thời trung đại) do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nén cái bán ngã ấy không được bộc lộ, phái giấu kín hoặc triệt tiêu. Nhà thơ phải nói tiếng nói của “cái ta – đạo lí” chung của thời đại. Đó là một nền thơ phi ngã, vô ngã. Chỉ khi nào “cái tôi” ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. “Cái tôi” đó chính là “khát vọng được thành thực”, là sự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. “Cái tôi” ấy bị xã hội phong kiến kiềm cliế trong bao nhiêu thế ki giờ đây trong bối canh mới của thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm 30 của thế kỉ XX mới được giải phóng và bùng nổ mãnh liệt. Và khi được giải phóng thì nó sẽ “làm giàu cho thi ca” bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
Khi luận giải về tư tưởng thơ mới, Hoài Thanh đã dùng cách đối sánh giữa tư tưởng thơ cũ (gồm trong chữ “ta”) và tư tưởng thơ mới (gồm trong chữ “tôi”). Cách luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “ta” và “tôi” luôn song hành để nêu lên mặt tích cực của cái tôi trong thơ mới : “Cái tôi thơ mới xuất hiện diễn đàn có tính khái quát : “Xã hội Việt Nam tờ xưa không có cá nhân,chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình”. “Cái tôi thơ mới xuất hiện mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này niệm cá nhân” tức là sự tự ý thức vể bản thân chứ không phải chủ nghĩa cá nhân. Cái tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó làm cho mọi người khó chịu. Nhưng ngày càng mất dần vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen. Sự mới mẻ trong tính ưu việt của cái tôi- bản ngã được chấp nhận. Còn trong thơ xưa, các thi nhân không một lần dám dùng chữ “tôi” để nói chuyện với mình hay với tất cà mọi người. không tự xưng mà ẩn mình sau chữ “ta”.
Cách dẫn dắt của tác giả tự nhiên linh hoạt và độc đáo. Từ thưc tế văn chương xưa nay mà thể hiện cái tôi trỗi dậy đòi được khẳng định và phong trào Thơ Mới mới nảy sinh từ sự trỗi dậy của “cái tôi” đó. Khi nói về bi kịch của cái “tôi”, tác giả không dùng lí lẽ để diễn đạt. Mạch văn không phải được dẫn dắt bằng ngôn ngữ khái niệm với những phương tiện liên kết của lôgíc hình thức, nặng tính thơ biện ta vẫn quen gặp trong những bài phê bình văn học nghiêng về khoa học thuần túy. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống, nương theo mạch liên kết của cảm’xúc thẩm mĩ. Bởi vậy mà tạo được sự rung cảm, đổng cảm ở người dọc. “Cái tôi” của các nhà thơ mới thật đáng thương (Người ta thấy nó đáng thương, Mà thật nó tội nghiệp quá!) vì nó mất đi chỗ dựa tư tưởng, bởi họ là những thi nhân mất nước đang sống trong cuộc đời mòn mỏi, tù túng.
Nghệ thuật tương phản đối lập giữa con đường muốn thoát thân với cái sự thực hiện hữu của cuộc đời đã nêu bật được bi kịch của cái tôi thơ mới. Mỗi cái tôi là một nỗ lực đào sâu trốn chạy vài ý thức cá nhân nhưng càng đi sâu càng bế tắc. Đặc sắc của đoạn văn là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng lối văn giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu khiến cho văn phê bình mà đọc lên nghe như thơ.
Tác giả sử dụng dạng ngôn ngữ phi khái niệm, dung dị, dễ hiếu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Độc đáo hơn nữa là tác giả tạo ra hình ảnh một độc gỉa yêu thơ cứ theo buớc chân các nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi vị.
Chủ đề được triển khai thành hai phần chính: khái quát về hướng tìm tòi, hệ quả chung và điểm qua những gương mặt điển hình cùng lãnh địa cá nhân điển hình của thơ mới để thấy được sự phân hóa đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tác của ý thức cá nhân. Từ đó tác giả đi đến một nhân định: “Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam xôn xao như thế”. Đây là nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang “cái tôi” cô đơn nhỏ bé trước cách mạng. Điều đó đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng riêng của thơ mới.
Bi kịch của cái tôi Thơ mới là bi kịch không dễ gì giãi quyết được vì họ “thiếu một lòng tin đầy đủ”, thiếu một lí tướng sống cho cuộc đời. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các thi nhân chi biết giải quyết bi kịch ấy bằng cách “gửi cả vào tiếng Việt” bởi vì “tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa hứng vong hổn những thế hệ qua”. Như vậy, các thi nhân thơ mới đã tìm thấy một chỗ dựa tin cậy của tư tưởng nòi giống, của các thể thơ xưa, của tiếng Việt,… đế vin vào những điều bất diệt ấy mà đảm báo cho ngày mai. Ba câu vẫn điệp lại một cấu trúc “chưa bao giờ như bây giờ” vừa nhấn mạnh ý vừa thể hiện giọng điệu thiết tha thông cảm khiến cho bài văn nghị luận không khô khan mà thấm đượm tình người- ở dây là tình của người phê bình với các thi nhân thơ mới.
“Một thời đại trong thi ca” là một văn bản phê bình văn học. Bài viết thấm đượm phong cách khoa học và phong cách nghệ thuật. Phong cách khoa học trước hết ở những luận điểm mới mẻ, sâu sắc, phản ánh được bản chất sự vật. Luận điểm lại được luận giải một cách chặt chẽ, khúc chiết, có sức thuyết phục cao. Phẩm chất nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế. Cảm xúc hóa thân thành giọng điệu tác giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành thứ ngôn ngữ vừa cảm xúc vừa hàm súc, uyển chuyển, gợi cảm, bài viết đã nêu được quan niệm đúng đắn của tác giả về tinh thần thơ mới qua cách luận giải sắc sảo, diễn đạt tài hoa đẩy sức thuyết phục.
Qua tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”, người đọc có thể thấy được tấm lòng ưu ái của các nhà thơ mới và thế hộ thanh niên đương thời. Họ là những trí thức tiểu tư sản chưa tìm thấy con đường cách mạng hoặc giả cũng chưa dũng cảm dấn thân vào con đường đấu tranh vũ trang đầy máu lửa và chông gai ấy. Vì thế, tấm lòng sâu nặng với non sông đành gửi vào trong tình yêu tiếng Việt, tình yêu văn hoá dân tộc, gửi vào những tâm sự nhớ thương thầm kín đối với cái hồn quê đất nước. Trong hoàn cảnh xã hội đương thời, những biểu hiện đó của các nhà thơ mới và các thanh niên trí thức tiểu tư sản đương thời cũng là đáng quý, đáng trân trọng.
2. Phân tích tinh thần thơ mới được Hoài Thanh nói đến trong Một thời đại trong thi ca – Lớp 11
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.
Tinh thần thơ mới là một nội dung nổi bật được Hoài Thanh nói lên thật sâu sắc trong phần cuối bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”.
Sau khi chỉ ra hình dáng câu thơ, nhạc điệu câu thơ, sự mềm mại, chỗ ngắt hơi, phép dùng chữ, phép đặt câu,… của thơ mới, ông nói rõ tinh thần thơ mới là điều quan trọng hơn ta hãy đi tìm. Ông đưa ra một tiêu chí là “phải sánh bài hay với bài hay”; ông chỉ ra sự kế thừa của sự vật là “Hôm nay đã phôi thai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ”. Vì các thời đại vẫn nối tiếp theo dòng chảy thời gian nên “muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể”.
Tinh thần thơ mới theo Hoài Thanh biểu hiện rõ nhất ở chữ tôi. Trong thơ cũ là chữ ta, còn trong thơ mới là chữ tôi. Tuy có chỗ giống nhau nhưng vẫn có chỗ khác nhau, đó là điều chúng ta hãy cần tìm hiểu.
Cái tôi là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có, là sự tự ý thức về mình. Nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy: Quan niệm cá nhân. Lúc đầu chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam “thực bỡ ngỡ”, như một kẻ “lạc loài nơi đất khách”. “Chữ tôi vài cái nghĩa tuyệt đối của nó” lúc đầu xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó đến một mình, “bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu”. Ngày một ngày hai, “mất dần vẻ bở ngỡ rồi được “vô số người quen”, cảm thấy “nó đáng thương”, “nó tội nghiệp quá!”.
Bài “Tình già” của Phan Khôi, bài “Trên đường đời”, “Vắng khách thơ” (sau đổi thành “Xuân về”) của Lưu Trọng Lư là ba bài thơ mới được giới thiệu trên báo Phụ nữ tân văn vào năm 1932. Sáu năm sau, 1938, tập “Thơ thơ” của Xuân Diệu ra đời. Ta có thế giới thiệu hai đoạn thơ làm ví dụ để thấy được “hình dáng câu thơ”, thấy được cái tôi từ chỗ “bỡ ngỡ” lúc đầu rồi về sau được “vô số người quen” như thế nào?
“Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp Mộ
Trong gian nhà cổ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau oanh giục giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng
“Này, này? bạn xuân sang”
Chàng nhìn xuân mặt hớn hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn vã”
(“Xuân về” – Lưu Trọng Lư”
Và đây là bốn câu thơ trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu Mỗi sáng sớm thần vui hằng gõ cửa;
“Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân “chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Những bậc kì tài (như Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương, Tú Xương), “thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ”, thẳng hoặc trong thơ văn họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác” (1). Trong thợ cũ thường chỉ có chữ ta, các thi sĩ “ẩn mình sau chữ ta một chữ có thể chí chung nhiều người”.
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)
“Dùng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta”
(Bà Huyện Thanh Quan)
“Gặp ta nay, xuân chớ lạ lùng
Tóc có khác nhưng lòng chẳng khác
Kể từ thuở biết xuân bốn mươi chín năm về trước
Vẫn rượu thơ non nước thú làm vui
Đến xuân này ta tuổi đã năm mươi
Tính trăm tuổi đời người, ta mới nửa
Rồi sau lại bao nhiêu xuân nữa
Mặc trời cho ta chửa hỏi chi
Sẵn rượu đào xuân uống với ta đi”
(Gặp xuân – Tản Đà)
Cái tôi của thơ mời là cái tôi đầy bi kịch. Cũng muốn nói đến cái khổ sở, thảm hại trước “nỗi đời cay cực” của các nhà thi nhân. Cũng nói đến chuyện lên tiên được sống trong giấc mơ tiên (“Tiếng sáo Thiên Thai” – Thế Lữ). Cũng nói đến say, đến cô đơn (“Say đi em”, “Phương xa” – Vũ Hoàng Chương). Hoặc phiêu lưu trong trường tình:
“Thuyền yêu không ghé bến sầu
Nhớ đêm thiếu phụ bên lầu không trăng”
(Một mùa đông – Lưu Trọng Lư)
Hoặc điện cuồng, hoặc đắm say, hoặc bơ vơ, hoặc ngơ ngẩn buồn:
“Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Để nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo”
(Chế Lan Viên)
“Chiều đông tàn, lạnh xuống tự trời cao
Không lửa ấm, chắc hồn buồn lắm đó”
(Huy Cận)
“Trăng sáng, trăng xa, trông rộng quá
Hai người, nhưng chẳng bớt bơ vơ”
(Xuân Diệu)
Cái tôi làm cho nền hồn thơ giàu bản sắc của thơ mới, đồng thời cũng chứa đầy bi kịch của thơ mới. Cách phân tích của Hoài Thanh vừa khái quát vừa cụ thể, rất tinh tế và tài hoa. Cách dùng từ chính xác, cách dùng điệp từ, dùng tương phản để tạo giọng điệu và cảm xúc, đọc lên nghe rất lí thú:
“Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mạc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Những động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.
Phải nắm được cái hồn của thơ mới, và phải rất tài hoa mới viết đúng và viết hay như vậy. Hoài Thanh như dẫn hồn độc giả nhập vào hồn của thơ mới:
“Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.
Chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước”.
Một điểm nổi bật nữa của thơ mới là đã góp phần hiện đại hoá tiếng Việt. Câu thơ co, duỗi tự nhiên. Lời thơ giản dị, dễ hiểu, giàu cảm xúc và hình ảnh. Các nhà thơ mới đã gửi gắm tấm lòng trân trọng và yêu quý tiếng Việt. Hoài Thanh đã dùng hình ảnh “tấm lụa” và “tấm hồn bạch” để nói lên tình cảm đẹp đẽ đó:
“Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỉ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng”.
Đoạn cuối của bài tiểu luận “Một thời đại thi ca”, Hoài Thanh đã trân trọng, quý trọng bày tỏ niềm hi vọng đối với thơ mới và các nhà thơ mới “trong thất vọng sẽ nảy mầm hi vọng”. Thơ mới cũng như các nhà thơ mới kế thừa và phát huy truyền thống tinh thần nòi giống, sẽ kế thừa những tinh hoa của thơ cũ, nền thơ cổ điển Việt Nam, “tìm về dĩ vãng để vin về những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai”.
Điệp ngữ “Chưa bao giờ như bây giờ…’! cất lên ba lần làm cho giọng văn vang lên tha thiết, ân tình.
Những năm 1943, 1944, thơ mới như bị “chững lại”. Nhưng rồi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt đã thổi lửa cho thơ mới và thế hệ những nhà thơ mới. Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu, Thế Lữ,… đã trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, đã góp phần xứng đáng xây dựng và phát triển nền thơ ca Việt Nam hiện đại.
Bảy thập niên sau, đọc “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh, ta hiểu thêm thơ mới, ta yêu thêm lớp thi sĩ tiền chiến của “một thời đại thi ca”.
3. Cảm nhận của anh (chị) khi đọc văn bản Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh
Một thời đại trong thi ca là một văn bản phê bình văn học. Bài viết thấm đượm phong cách khoa học và phong cách nghệ thuật. Phím hát khoa học trước hết ở những luận điểm mới me, sâu sắc, phản ánh được bản chất sự vật, luận điểm 1 lại được luận giai một cách chặt chẽ, khúc chiết, có sức thuyết phục cao. Phim chất nghệ thuật được bộc lộ ở những cảm xúc thẩm mĩ tinh tế. Cảm xúc hóa thân thánh giọng điệu tác giả, thành hình ảnh diễn đạt, thành thứ ngôn ngữ vừa cảm xúc vừa hàm súc, uyển chuyển, gợi cảm, bài viết đã nêu được quan niệm đúng đắn của tác giả về tinh thần thơ mới qua cách luận giải sắc sảo, diễn đạt tài hoa đẩy sức thuyết phục.
Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca. Luận điểm bao trùm cả đoạn trích này là vấn đề “tinh thần thơ mới”. Đây là luận điểm đặc sắc và kết tinh nhiều tinh hoa văn phê bình của Hoài Thanh. Luận điếm được triển khai thành ba nội dung chính Bởi thứ nhất, ông nêu ra nguyên tắc chung cho việc định nghĩa của mình: Chỉ căn cứ vào “cái hay”, không căn cứ vào “cái đó” ; Chỉ căn cứ vào “đại thể”, không căn cứ vào “tiếu tiết”. Theo quan niệm của Hoài Thanh (cũng là nguyên tắc phổ biến khi xem xét một hiện tượng văn học), chi có “cái hay”, cái “đại thế mới đủ tư cách đại diện cho một thời đại thi ca. “cái dở”, cái “tân tiết” không đủ tư cách đại diện cho nghệ thuật và cho một thời đại lớn của nghệ thuật. Hoài Thanh nêu định nghĩa về tinh thần thơ mới bằng cách đối sánh: Tinh thần thơ cũ gồm trong chữ “ta”; tinh thần thơ mới gồm trong chữ “tôi”. Nhà phê bình có đề cập đến chỗ giống nhau nhưng hướng trọng tâm vào chỗ khác nhau của hai chữ này. Bước thứ hai, tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “tôi” và “ta”; Chữ “ta” và biểu hiện của chữ “ta” cùng số phận của nó trong thời đại thơ cũ trước kia. Chữ “tôi” và biểu hiện của chữ “tôi” cùng số phận đầy bi kịch của nó trong thời đại thơ mới này.
Qua ba bước trên, người đọc nhận thấy nhà phê bình đã tuân theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể, từ diện mạo (trong không gian) đến diễn biến lịch sử (trong thời gian). Các bước lập luận với trật tự như vậy rất đảm bảo tính lôgíc của tư duy. Vì vậy khả năng thuyết phục rất cao. Đây là một ưu thế của văn nghị luận.
Tinh thần thơ mới gói gọn trong một chữ “tôi”. “Cái tôi” của các nhà thấy mới là bàn ngã của mọi con người mà ai cũng có. Nhưng trong những thời kì lịch sử nhất định (đặc biệt là thời trung đại) do hệ tư tưởng chính thống của thời đại khống chế, ép buộc nén cái bán ngã ấy không được bộc lộ, phái giấu kín hoặc triệt tiêu. Nhà thơ phải nói tiếng nói của “cái ta đạo lí” chung của thời đại. Đó là một nền thơ phi ngã, vô ngã. Chỉ khi nào “cái tôi ” ấy được giải phóng thì thi nhân mới có thể nói lên những điều thành thực tự đáy lòng mình. “Cái tôi” đó chính là”khát vọng được thành thực”, là sự khẳng định bản ngã của nhà thơ trước cuộc đời, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. “Cái tôi” ấy bị xã hội phong kiến kiềm chế trong bao nhiêu thế kỉ giờ đây trong bối canh mới của thời kì hiện đại, đặc biệt là những năm 30 của thế kỉ XX mới được giải phóng và bùng nổ mãnh liệt. Và khi được giải phóng thì nó sẽ “làm giàu cho thi ca” bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật.
Khi luận giải về tư tưởng thơ mới, Hoài Thanh đã dùng cách đối sánh giữa tư tưởng thơ cũ (gồm trong chữ “ta”) và tư tưởng thơ mới (gồm trong chữ “tôi”). Cách luận giải về nội dung và biểu hiện của hai chữ “ta” và “tôi” luôn song hành để nêu lên mặt tích cực của cái tôi trong thơ mới: “Cái tôi thơ mới xuất hiện diễn đàn có tính khái quát: “Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân, chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. “Cái tôi thơ mới xuất hiện mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này niệm cá nhân” tức là sự tự ý thức vể bản thân chứ không phải chủ nghĩa cá nhân. Cái tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó làm cho mọi người khó chịu. Nhưng ngày càng mất dần vẻ bỡ ngỡ và được vô số người quen. Sự mới mẻ trong tính ưu việt của cái tôi bản ngã được chấp nhận. Còn trong thơ xưa, các thi nhân không một lần dám dùng chữ “tôi” để nói chuyện với mình hay với tất cà mọi người không tự xưng mà ẩn mình sau chữ “ta”. Cách dẫn dắt của tác giả tự nhiên linh hoạt và độc đáo. Từ thưc tẽ văn chương xưa nay mà thể hiện cái tôi trồi dạy đòi được khẳng định và phong trào Thơ mới nảy sinh từ sự trỗi dậy cùa “cái tôi” đó.
Khi nói về bi kịch của cái tôi, tác giả không dùng lí lẽ để diễn đạt. Mạch văn không phải được dẫn dắt bằng ngôn ngữ khái niệm với những phương tiện liên kết của lôgíc hình thức, nặng tính thơ biện ta vẫn quen gặp trong những bài phê bình văn học nghiêng về khoa học thuần túy. Trái lại, ông dẫn dắt ý chủ yếu bằng ngôn ngữ đời sống, nương theo mạch liên kết của cảm xúc thẩm mĩ. Bới vậy mà tạo được sự rung cảm, đồng cảm ở người dọc. “Cái tôi” của các nhà thơ mới thật đáng thương (Người ta thấy nó đáng thương, Mà thật nó tội nghiệp quá!) vì nó mất đi chỗ dựa tư tưởng, bởi họ là những thi nhân mất nước đang sống trong cuộc đời mòn mỏi, tù túng. Nghệ thuật tương phản đối lập giữa con đường muốn thoát thân với cái sự thực hiện hữu của cuộc đời đã nêu bật được bi kịch của cái tôi thơ mới. Mỗi cái tôi là một nỗ lực đào sâu trốn chạy vài ý thức cá nhân nhưng càng đi sâu càng bế tắc. Đặc sắc của đoạn văn là những khái quát rất chính xác, súc tích, lại được viết bằng lối văn giàu hình ảnh, giàu nhịp điệu khiến cho văn phê bình mà đọc lên nghe như thơ. Tác giả sử dụng dạng ngôn ngữ phi khái niệm, dung dị, dễ hiếu mà vẫn súc tích, diễn đạt được bản chất của đối tượng. Độc đáo hơn nữa là tác giả tạo ra hình ảnh một độc gỉa yêu thơ cứ theo buớc chân các nhà thơ tiêu biểu bước vào cõi thơ riêng của mỗi vị.
Chủ đề được triển khai thành hai phần chính: khái quát về hướng tìm tòi, hệ quả chung và điểm qua những gương mặt điển hình cùng lãnh địa cá nhân điển hình của thơ mới để thấy được sự phân hóa đa dạng cùng sự quẩn quanh bế tác của ý thức cá nhân. Từ đó tác giả đi đến một nhân định: “Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam xôn xao như thê”. Đây là nỗi buồn của một thế hệ thi nhân mất nước mang “cái tôi” cô đơn nhỏ bé trước cách mạng. Điều đó đã làm nên âm hưởng, giọng điệu đặc trưng riêng của thơ mới.
Bi kịch của cái tôi thơ mới là bi kịch không dễ gì giãi quyết được vì họ “thiếu một lòng tin đầy đủ”, thiếu một lí tướng sống cho cuộc đời. Trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, các thi nhân chi biết giải quyết bi kịch ấy bằng cách “gửi cả vào tiếng Việt” bởi vì “tiếng Việt, họ nghĩ là tấm lụa hứng vong hồn những thế hệ qua”. Như vậy, các thi nhân thơ mới đã tìm thấy một chỗ dựa tin cậy của tư tưởng nòi giống, của các thể thơ xưa, của tiếng Việt,… để vin vào những điều bất diệt ấy mà đảm báo cho ngày mai. Ba câu vẫn điệp lại một cấu trúc “chưa bao giờ như bây giờ” vừa nhấn mạnh ý vừa thể hiện giọng điệu thiết tha thông cảm khiến cho bài văn nghị luận không khô khan mà thấm đượm tình người ở dây là tình của người phê bình với các thi nhân thơ mới.
Đoạn trích cũng như toàn bài tiểu luận Một thời đại trong thi ca là một mẫu mực đẹp đẽ, một thành tựu xuất sắc của Hoài Thanh trong thể nghị luận văn chương thuộc lĩnh vực phê bình, văn học. Đoạn văn đã nêu bật được tư tưởng thơ mới, thể hiện được cách nhìn nhận thơ mới trong bối cảnh lịch sứ và thực tiễn thơ ca một cách đúng đắn, khoa học. Đó cũng là cách nhìn tiến bộ với hình tượng thơ mới 1932- 1941 theo quan điểm lịch sứ xuất phát từ chính con người và hồn thơ của các thi nhân lúc bấy giờ. Cách lí giải của Hoài Thanh đã hơn 60 năm trôi qua mà vẫn rất gần với cách hiểu của chúng ta về thơ mới hôm nay.