Giá cao su được dự báo tiếp tục neo cao do thiếu hụt nguồn cung tại các quốc gia sản xuất chính trong khi nhu cầu ổn định. MBS kỳ vọng xuất khẩu cao su của Việt Nam tăng trưởng tích cực trong năm 2025 nhờ giá bán cao và sản lượng tăng.
Giá cao su tự nhiên neo cao do thiếu hụt nguồn cung
Năm 2024, giá cao su tự nhiên trên thị trường thế giới đã tăng đáng kể (giá cao su TSR20 và RSS3 bình quân tăng 27% và 54% so với cùng kỳ), chủ yếu do ảnh hưởng bởi các hiện tượng thời tiết cực đoan: Nửa đầu năm, hiện tượng El Niño khiến nhiệt độ cao kéo dài và thời tiết khô hạn tại các khu vực sản xuất chính ở Đông Nam Á; còn đến nửa cuối năm diễn biến mưa lớn kéo dài cùng với bão lũ liên tiếp xảy ra tại các vùng sản xuất lớn tại Thái Lan và Việt Nam đã khiến công việc khai thác cao su gặp khó khăn, làm trì hoãn nguồn cung nguyên liệu trong cao điểm thu hoạch. Thời tiết không thuận lợi trong năm vừa qua khiến nguồn cung giảm đẩy giá cao su tự nhiên tăng cao.
Theo ANRPC, năm 2024, sản lượng và tiêu thụ cao su tự nhiên tăng trưởng lần lượt 2.8% và 1.8% so với cùng kỳ, thiếu hụt khoảng 1.16 triệu tấn. Đồng thời, ANRPC cảnh báo tình trạng nguồn cung cao su toàn cầu có thể kéo dài đến năm 2028, dẫn đến mức thiếu hụt hàng năm từ 600-800 nghìn tấn.
Chuyên gia tại MBS cho rằng nguồn cung thiếu hụt chưa thể bù đắp cho tới niên vụ mới do sản lượng tại các quốc gia xuất khẩu chính suy giảm; đồng thời nhiều khả năng La Nina quay trở lại vào cuối 2025.
Theo Hiệp hội cao su Thái Lan (RAOT), năm 2024, sản lượng cao su của Thái Lan đạt 4,69 triệu tấn, giảm 0,5% so với năm 2023. Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do mưa lớn và lũ lụt ở miền Nam Thái Lan vào tháng 12/2024, ảnh hưởng đến 11 tỉnh chiếm 80% sản lượng cao su của cả nước. Điều này làm giảm khoảng 140.000 tấn trong tháng 12. Sản lượng xuất khẩu cao su năm 2024 đạt 4,705 nghìn tấn giảm 1.5% so với cùng kỳ, mức thấp nhất trong 4 năm qua. Tương tự với Indonesia (18% nguồn cung toàn cầu), sản lượng xuất khẩu cao su năm 2024 đạt 1.55 triệu tấn giảm 13.4% so với 1.79 triệu tấn đạt được năm 2023. Đây là năm giảm thứ 3 liên tiếp, nguyên nhân do bệnh rụng lá lan rộng và chuyển đổi diện tích trồng cao su sang trồng các loại nông sản khác có giá trị kinh tế cao hơn.
Sản lượng khai thác tại các nông trường cao su lớn tại Thái Lan, Indonesia suy giảm trong giai đoạn quý 4/2024 và đầu năm 2025 do thời tiết mưa lớn kéo dài, dịch bệnh lá và giảm diện tích trồng. Tình trạng thiếu hụt khó được cải thiện ngay do bước vào giai đoạn cây thay lá mới, ngưng cạo mủ từ tháng 1 đến tháng 5. Tình trạng này chỉ có thể được cải thiện từ vụ khai thác mới từ tháng tháng 6/2025 trở đi.
Trong khi đó, sản lượng khai thác năm 2024 của Việt Nam đạt 1.37 triệu tấn tăng 6.2% so với cùng kỳ, tương ứng tăng 80 nghìn tấn. Tuy nhiên, mức tăng này không đủ bù đắp được thiếu hụt từ Thái Lan và Indonesia.
Còn theo báo cáo cập nhật của Viện Nghiên cứu Quốc tế về Khí hậu và Xã hội (IRI), hiện tượng La Nina có thể hoạt động mạnh vào Q3/25 với xác suất từ tháng 7 đến tháng 9/25 là 38%/44%/48%. La Nina diễn ra sẽ gây ra nhiều cơn bão/áp thấp nhiệt đới và mưa nhiều tại khu vực Đông Nam Á, theo đó Việt Nam và Thái Lan sẽ chịu tác động lớn, từ đó có khả năng ảnh hưởng đến sản lượng khai thác cao su.
Kế hoạch tăng thuế oto nhập khẩu của Mỹ không tác động nhiều đến nhu cầu tiêu thụ
Trong bối cảnh nguồn cung thiếu hụt, nhu cầu tại thị trường sản xuất xe lớn (Mỹ và Trung Quốc) vẫn tăng trưởng. Tại Mỹ, doanh số bán ô tô mới đạt 15.9 triệu chiếc trong năm 2024 (+2.2% so với cùng kỳ), đây là mức cao nhất trong 5 năm nhờ doanh số bán xe hybrid và xe điện. Sản lượng nhập khẩu lốp xe năm 2024 đạt 279 (+7.2% so với cùng kỳ).
Tại Trung Quốc, sản lượng lốp xe tăng trưởng 2 con số trong năm 2023- 24, lần lượt đạt 15% và 20% so với cùng kỳ. Sản lượng sản xuất oto đạt 31.3 triệu chiếc (+3.6% so với cùng kỳ), lượng tiêu thụ đạt 31.4 triệu chiếc (+4.4% so với cùng kỳ). Tỷ lệ hoạt động nhà máy sản xuất lốp xe toàn thép ở mức 66.7% và nhà máy sản xuất lốp xe bán thép đạt trên 80% ghi nhận đến 16/02/2025, cao hơn so với các năm trước, cho thấy nhiều đơn hàng sản xuất hơn.
Ngày 18/02/2025, Tổng thống Mỹ thông báo kế hoạch áp thuế với oto nhập khẩu, mức thuế suất dự kiến “trong phạm vi 25%”, chi tiết sẽ được công bố vào ngày 02/04 tới. Hiện thuế nhập khẩu oto vào Mỹ ở mức 2.5% với xe con và 25% với xe bán tải. Các quốc gia như Canada, Mexico, Hàn Quốc và Australia sẽ không bị ảnh hưởng do có hiệp định tự do thương mại FTA với Mỹ nhờ đó xe nhập khẩu vào Mỹ được hưởng thuế suất ưu đãi hoặc miễn thuế. Ngược lại, các quốc gia như EU, Trung Quốc và Nhật Bản sẽ là đối tượng chính của kế hoạch này.
Tuy nhiên, chuyên gia tại MBS cho rằng kế hoạch tăng thuế oto nhập khẩu của Mỹ không tác động nhiều đến nhu cầu tiêu thụ mà tạo ra xu hướng dịch chuyển sản xuất sang các nước thứ 3.
Kế hoạch này ít tác động tới hoạt động sản xuất xe của Trung Quốc vì Mỹ không phải thị trường chính, chiếm chưa tới 2% sản lượng tiêu thụ oto của Trung Quốc. Các hãng xe lớn như Toyota, Honda, Nissan của Nhật Bản đều có nhà máy sản xuất xe ngay tại Mỹ nên cũng ít bị ảnh hưởng đến khả năng tiêu thụ. Đức và Anh xuất khẩu oto nhiều nhất sang Mỹ, nhưng giá trị xuất khẩu chỉ khoảng 40 tỷ USD, chiếm khoảng 16% thị phần xe nhập khẩu vào Mỹ.
Xuất khẩu cao su của Việt Nam hưởng lợi
Giá cao su giao dịch trên thế giới tăng cao đã giúp kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam trong năm 2024 đạt 3.4 tỷ USD tăng 18.2% so với cùng kỳ dù sản lượng xuất khẩu giảm 6.2% so với cùng kỳ. Giá xuất khẩu cao su bình quân đạt 1,701 USD/tấn tăng 26% so với cùng kỳ.
Theo dữ liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, sản lượng khai thác cao su tự nhiên tại Việt Nam tăng trở lại vào nửa cuối năm 2024, đạt 960 nghìn tấn tăng 9.4% so với cùng kỳ. Qua đó, tổng sản lượng khai thác năm 2024 đạt 1,370 nghìn tấn tăng 6.2% so với cùng kỳ. Sản lượng thu hoạch của Việt Nam tăng trong khi các nước sản xuất lớn khác giảm, cùng với giá bán cao, sẽ giúp kim ngạch xuất khẩu cao su vẫn tăng trưởng tốt trong năm 2025. Kim ngạch xuất khẩu cao su có thể đạt trên 3.5 tỷ USD.
Theo Uỷ ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ (USITC), năm 2024, giá trị và sản lượng cao su nhập khẩu vào Mỹ đạt 3.7 tỷ USD (+10.4% so với cùng kỳ) và 1,74 triệu tấn (+4.1% so với cùng kỳ). Lượng cao su nhập khẩu vẫn thấp hơn mức 1.94 và 2.03 triệu tấn của năm 2021-22. MBS cho rằng Mỹ sẽ tăng lượng cao su nhập khẩu trong thời gian tới nhờ sản xuất oto trong nước cải thiện khi Mỹ tăng thuế suất nhập khẩu oto và đa dạng hoá nguồn cung, giảm phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu cao su từ Canada, Mexico và Trung Quốc (chiếm khoảng 19% lượng nhập khẩu vào Mỹ).
Việt Nam đang hướng tới thị trường Mỹ để giảm lệ thuộc vào thị trường Trung Quốc, qua đó nâng cao giá trị xuất khẩu cao su. Năm 2024, Việt Nam xuất khẩu cao su sang Mỹ đạt 29.2 nghìn tấn (+14.3% so với cùng kỳ) về sản lượng và 50.6 triệu USD (+38.9% so với cùng kỳ) về trị giá. Thị phần của Việt Nam tăng từ 1.5% vào năm 2023 lên 1.7% vào năm 2024. Đây là mức thị phần thấp so với các nước cung cấp khác trong khu vực như Thái Lan (16.4%), Indonesia (22.5%) và Malaysia (2.5%), dù giá cạnh tranh hơn.
Đây là cơ hội cho Việt Nam xuất khẩu cao su sang Mỹ trong bối cảnh kinh tế Mỹ đang trên đà tăng trưởng trở lại, lãi suất bước vào chu kỳ cắt giảm. Mỹ là thị trường tiêu thụ lớn cũng đặt ra các yêu cầu cao về chất lượng và tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm, điều này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao chất lượng để đáp ứng nhu cầu của thị trường “khó tính” này.
Với thị trường EU, Quy định chống phá rừng (EUDR) bắt đầu có hiệu lực từ 29/06/2023. Bảy loại nguyên liệu trong phạm vi kiểm soát gồm dầu cọ, gia súc, cà phê, cao su, gỗ, cao cao và đậu tương. Việt Nam có ba nguyên liệu gồm cà phê, gỗ và cao su. Để được phép lưu thông các mặt hàng này tại EU, các công ty nhập khẩu cần đảm bảo sản phẩm là hợp pháp và không gây mất rừng và suy thoái rừng. Đối với cao su, việc áp dụng quy định EUDR sẽ tác động đến nguyên liệu chính là cao su và các sản phẩm từ cao su như lốp xe, găng tay, thiết bị y tế,…..
Tháng 11/2024, Nghị viện Châu Âu đã đồng ý lùi thời gian thực thi quy định EUDR thêm 1 năm so với kế hoạch ban đầu, dự kiến được áp dụng kể từ cuối năm 2025.
Mặc dù, thị trường EU không phải thị trường xuất khẩu chính của cao su Việt Nam, nhưng việc đáp ứng yêu cầu khắt khe của quy định EUDR sẽ giúp Việt Nam khai thác được thị trường nhiều tiềm năng, sức mua cao và còn nhiều dư địa phát triển. Doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn được cấp chứng chỉ rừng PEFC/VFCS sẽ có nhiều lợi thế kinh doanh khi xuất khẩu sang các thị trường khó tính. Từ đầu năm 2024, VRG đã chính thức áp dụng giá sàn cho các sản phẩm được chứng nhận PEFC, với mức giá cao hơn giá sàn tối thiểu là 10 USD cho các sản phẩm cùng loại.
Nguồn: https://baodaknong.vn/huong-loi-tu-gia-ban-cao-xuat-khau-cao-su-duoc-ky-vong-tang-truong-tot-trong-nam-2025-244117.html