Chuyển đổi xanh đang là yêu cầu bắt buộc, thậm chí là mệnh lệnh của thị trường. Doanh nghiệp xuất khẩu muốn tồn tại phải tuân theo mệnh lệnh đó. Tuy nhiên, để làm được điều này, với đặc thù của nền kinh tế, cần có sự nỗ lực, phối hợp từ các phía, đặc biệt là cần khung khổ pháp lý rõ ràng và đủ rộng.
Vẫn biết rằng, thúc đẩy sản xuất theo hướng bền vững mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp. Bên cạnh những lợi ích xã hội như giúp bảo vệ môi trường, giảm phát thải, phía doanh nghiệp cũng được hưởng lợi ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng việc trang bị kiến thức về vấn đề này còn là một khoảng trống. Trước những đòi hỏi ngày càng cao của thị trường, của đối tác cũng như nhằm bắt kịp xu hướng chuyển đổi xanh của thế giới, nhiều doanh nghiệp phải tự mày mò học hỏi, cập nhật kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, vừa làm vừa đánh giá, để điều chỉnh và hoàn thiện hơn mỗi ngày
Chuyển đổi xanh, xuất khẩu xanh trở thành “mệnh lệnh” bắt buộc
Theo các chuyên gia kinh tế, với một nền kinh tế sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch như hiện nay, thì việc việc chuyển đổi xanh chính là cơ hội lịch sử và thách thức sống còn của nhân loại. Xu hướng chuyển đổi xanh không chỉ là việc phát triển, ứng dụng công nghệ hướng tới môi trường xanh mà còn phải hệ thống hóa doanh nghiệp để thay đổi, từ quy trình sản xuất tới kinh doanh nhằm hướng tới kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn. Hơn thế, chuyển đổi xanh cũng là phương pháp chuyển đổi cách thức kinh doanh, được doanh nghiệp lựa chọn nhằm bảo vệ nguồn nhân lực, tối ưu hóa hiệu quả ở quy trình, vận hành, sản phẩm, mô hình kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp.
Thị trường quốc tế cũng đang dịch chuyển mạnh mẽ và sự thay đổi này chính là yêu cầu tất yếu để các doanh nghiệp Việt Nam có thể trụ lại trong cuộc chơi đầy khốc liệt này. Các chuyên gia kinh tế, cho rằng chuyển đổi xanh chính là yếu tố nhằm bảo vệ sức cạnh tranh, duy trì sản xuất và mở ra cơ hội xuất khẩu quốc tế của các doanh nghiệp. Các thị trường xuất khẩu truyền thống của Việt Nam như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… cũng ngày càng yêu cầu cao về các yếu tố bền vững, bao gồm cả yếu tố về môi trường, xã hội, kinh tế trong toàn chuỗi cung ứng của sản phẩm. Do vậy, nhiều ngành hàng đã ghi nhận mức sụt giảm đơn hàng lên tới 30 – 40%, điều này đã tạo nên những thách thức lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo TS. Võ Trí Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược thương hiệu và cạnh tranh, tư duy “kinh tế xanh” đã mang tính “cưỡng bức” mạnh mẽ. Các quy định về sản xuất xanh, bảo vệ môi trường và tái chế nguyên liệu thừa đã trở thành quy định nhằm tính điểm trong đơn hàng. Các doanh nghiệp đạt chỉ số môi trường, xã hội và quản trị (chỉ số ESG) sẽ nhận được nhiều đơn đặt hàng hơn.
Các chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, chuyển đổi xanh là yêu cầu bắt buộc, thậm chí là mệnh lệnh của thị trường. Doanh nghiệp xuất khẩu Việt muốn tồn tại thì phải tuân theo mệnh lệnh đó. Tuy nhiên, để làm được điều này, với đặc thù của nền kinh tế, cần có sự nỗ lực, phối hợp từ hai phía: doanh nghiệp và Nhà nước. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp, địa phương cũng cần đẩy mạnh liên kết vùng, nhằm khai thác tối đa lợi thế của cả vùng và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh mà nhiều thị trường lớn, đặc biệt là châu Âu đã có những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về bảo vệ môi trường, trong đó, có việc áp dụng Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (Carbon Border Adjustment Mechanism-CBAM). Với cơ chế này, các doanh nghiệp Việt Nam có nguy cơ bị cạnh tranh xuất khẩu và mất thị phần tại thị trường châu Âu do đối thủ cạnh tranh đã sẵn sàng cho việc đáp ứng các chính sách xanh.
Trước những đòi hỏi của thị trường, thì việc ban hành khung pháp lý để thực hiện, cũng như nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp cả nước nhằm đáp ứng việc giảm phát thải khí nhà kính, trung hòa carbon, tăng khả năng thích ứng và cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu là yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết.
Cần khung khổ pháp lý rõ ràng, và đủ rộng
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường và các bạn hàng, nhiều doanh nghiệp trong nước đang nỗ lực thực hiện nhiều biện pháp, cải tiến quy trình để phục vụ việc chuyển đổi xanh trong sản xuất. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất với doanh nghiệp khi thực hiện chuyển đổi xanh chính là chi phí đầu tư. Theo các doanh nghiệp, đây thực sự là một bài toán khó trong sản xuất, khi vừa phải đạt được mục tiêu phát triển bền vững, vừa cung cấp sản phẩm chất lượng mà giá thành phải hợp lý. Khó khăn nữa chính là nguồn cung ứng bền vững. Hiện nay, các đơn vị cung cấp dịch vụ, hay nguyên vật liệu bền vững trên thị trường rất ít, dẫn đến giá thành cho các dịch vụ và nguyên liệu khá cao.
Vẫn biết rằng, thúc đẩy sản xuất và phát triển bền vững mang lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp, bên cạnh những lợi ích xã hội như giúp bảo vệ môi trường, giảm phát thải, phía doanh nghiệp cũng được hưởng lợi ở nhiều khía cạnh khác nhau. Nhưng việc trang bị kiến thức về vấn đề này vẫn là một khoảng trống. Để đáp ứng yêu cầu thị trường cũng như theo kịp xu hướng chuyển xanh của thế giới, nhiều doanh nghiệp phải tự mày mò học hỏi, cập nhật kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau, vừa làm vừa đánh giá, để điều chỉnh và nâng cao hơn mỗi ngày.
Chia sẻ về những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi xanh, bà Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, hiện chúng ta vẫn đang thiếu các chính sách hỗ trợ mạnh mẽ cho phát triển xanh. Những chính sách hiện có chưa thực sự đồng bộ, dẫn đến việc chưa tạo được động lực đủ lớn cho các doanh nghiệp. Chẳng hạn như Chương trình quốc gia về sản xuất và tiêu dùng bền vững đã có những bước đi đầu tiên, nhưng vẫn còn thiếu các biện pháp cụ thể để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào sản phẩm xanh”, bà Minh dẫn chứng, đồng thời đề xuất cần có các chính sách liên quan đến thuế, tín dụng, tài chính, nguồn nhân lực,… để hỗ trợ cho những doanh nghiệp thực hiện đổi mới sáng tạo và phát triển sản phẩm thân thiện với môi trường.
Bà Minh cũng cho rằng, cần có một khung pháp lý rõ ràng hơn để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận và thực hiện các cam kết bền vững. Mặt khác, các chương trình đào tạo, hội thảo nâng cao nhận thức về tiêu dùng xanh cho doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng rất quan trọng. Các chính sách của nhà nước không chỉ giúp tạo ra động lực cho doanh nghiệp mà còn thúc đẩy sự chuyển mình mạnh mẽ trong thói quen tiêu dùng của người dân, hướng tới một tương lai bền vững hơn.
Từ phía doanh nghiệp, đại diện Acecook Việt Nam, cho rằng trước tiên và quan trọng nhất cho việc phát triển tiêu dùng xanh chính là đẩy mạnh các chiến dịch nâng cao nhận thức cộng đồng về lợi ích của tiêu dùng xanh và bảo vệ môi trường. Cùng với đó, cần có những tiêu chuẩn cho sản phẩm xanh và những ưu đãi cho các sản phẩm này khi lưu hành trên thị trường để tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp và tạo cơ hội để nhiều người tiêu dùng được tiếp xúc, sử dụng, ủng hộ sản phẩm xanh.
Ngoài ra, việc hỗ trợ trong nghiên cứu, phát triển công nghệ cho các doanh nghiệp tiến tới chuyển đổi xanh cũng là một việc làm cần thiết. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng xanh cũng cần được lưu ý để việc thực hiện chuyển đổi được đồng nhất từ trên xuống dưới, như: đầu tư cơ sở, phương tiện thu gom tái chế, phân loại rác thải, khuyến khích mô hình phân phối và logistic xanh, khuyến khích sử dụng phương tiện xanh như bus xanh, xe điện,… khuyến khích người tiêu dùng và doanh nghiệp cùng tham gia đóng góp.
PGS.TS. Trần Đình Thiên, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho rằng, thách thức của thời đại hiện nay chính là việc tích hợp 3 quá trình: chuyển đổi thị trường, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh. Đây là một yêu cầu khó khăn với điều kiện thực thi khắt khe và tính bất khả thi cao. Chia sẻ tại Hội thảo khoa học quốc tế về “Chuyển đổi xanh trong bối cảnh biến đổi toàn cầu năm 2024” mới đây, ông Thiên nhận định, rõ ràng so với các quốc gia phát triển khác trên thế giới, Việt Nam có xuất phát điểm thấp yếu và tụt hậu hơn nhiều. Chưa kể, quy trình chuyển đổi kinh tế thị trường vẫn còn chưa hoàn thành. Nền kinh tế vẫn còn nhiều nguy cơ và thách thức. Vì vậy, việc chuyển đổi từ “khát vọng nâu” sang “khát vọng xanh” đòi hỏi Việt Nam phải có những cách tiếp cận mới để tránh nguy cơ bị loại khỏi cuộc đua chuyển đổi xanh toàn cầu. Và những nguyên tắc tiếp cận mới để Việt Nam có thể hiện thực hóa được giấc mơ “phát triển xanh”, biến nền “kinh tế nâu” thành nền “kinh tế xanh”, trước tiên, đó là cần xác định các thách thức cấp quốc gia ở đúng tầm, đúng sức. Sau đó mới là bước áp dụng các nguyên tắc tiếp cận cụ thể.
Với các nguyên tắc tiếp cận mới, PGS.TS. Trần Đình Thiên nêu rõ, rằng biến thách thức quốc gia thành cơ hội doanh nghiệp và lợi ích xã hội; sử dụng sức mạnh cộng hưởng giữa toàn cầu với dân tộc, giữa nhà nước với doanh nghiệp và cộng đồng xã hội; trao quyền, tạo điều kiện, chịu trách nhiệm, khuyến khích người chiến thắng; chế tài quốc gia, đồng thuận dân tộc, trụ cột doanh nghiệp, động lực trí tuệ.
Trong quá trình phát triển xanh, chuyển đổi xanh, những nhiệm vụ cần được Việt Nam ưu tiên phải kể tới các tiêu chuẩn, hệ giá trị sống xanh; các thể chế phục vụ và hỗ trợ phát triển xanh. Ngoài ra, nhiệm vụ xanh hóa cơ cấu kinh tế, hướng tới nền kinh tế tuần hoàn và đô thị hóa theo định hướng xanh và thông minh cũng được ưu tiên. Và những ưu tiên cho ngành năng lượng sạch, nông sinh thái xanh, lâm nghiệp xanh, giao thông xanh, du lịch lịch xanh, giáo dục – y tế xanh, thị trường tín chỉ carbon, tín dụng xanh… là không thể thiếu.
Cuối cùng, để quy trình chuyển đổi xanh được diễn ra trơn tru, mượt mà và theo đúng lộ trình, việc giáo dục nhận thức và tuyên truyền về biến đổi khí hậu và chuyển đổi xanh cho từng cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp là điều hết sức cơ bản và quan trọng. Chỉ khi mỗi người trong chúng ta nhận thức được rõ ý nghĩa của quá trình chuyển đổi xanh thì việc thực thi mới sớm trở thành hiện thực và hành trình đến với Net Zero – phát thải ròng bằng 0 năm 2050 mới gần thêm một bước.
Nguồn: https://baodaknong.vn/can-khung-kho-phap-ly-de-thuc-day-chuyen-xanh-241528.html