1. Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm của Mùa lá rụng trong vườn
Tác giả Ma Văn Kháng
1. Tiểu sử
– Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn, ông sinh năm 1936 tại Đống Đa, Hà Nội.
– Trong kháng chiến chống Mỹ, ông đến vùng cao miền Bắc để dạy học
– Năm 1976, ông chuyển về Hà Nội và giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ngành báo chí, văn học nước nhà,…
2. Sự nghiệp văn học
a. Quan điểm sáng tác
“Tôi đặt nhiều sự quan tâm vào giai đoạn lịch sử, đưa ra những vấn đề mang tính sử thi. Tôi quan niệm không có sử thi thì không có nền văn học dân tộc. Văn học phải có những tác phẩm khắc họa bước đi lớn của đất nước.”
b. Tác phẩm chính
Các tác phẩm tiêu biểu của ông: Mùa lá rụng trong vườn, Hoa gạo đỏ, Đồng bạc trắng hoa xòe, Mưa mùa hạ, Chim én liệng trời cao,…
c. Phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật: kết hợp giữa tính hiện thực và tính nhân văn, giữa triết lý và trữ tình; quan tâm đến vấn đề giá trị đạo đức giữa biến động lớn lao của thời cuộc.
Tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn
1. Tóm tắt
Chị Hoài từng là dâu trưởng, vợ anh cả Tường liệt sĩ, trong nhà ông giáo Bằng. Sau đó chị đã có gia đình mới và sinh sống ở quê nhưng cả gia đình ông Bằng vẫn rất yêu quý chị. Nhận được thư ông Bằng kể về truyện Cừ bỏ trốn ra nước ngoài, chị thu xếp lên với nhà chồng cũ vào chiều 30 Tết. Thấy chị, những người em chồng đều mừng rỡ, tay bắt mặt mừng. Chị ân cần hỏi han từng người và đem quà quê biếu gia đình. Ông Bằng đang chuẩn bị cúng bữa cơm tất niên. Cả ông Bằng và chị Hoài đều rưng rưng xúc động, không ngăn được dòng nước mắt. Sau những lời hỏi thăm ân cần, ông Bằng chắp tay thành kính cúng tổ tiên. Dòng tâm tư và lời khấn vái của ông bày tỏ tấm lòng tri ân với tiên tổ, kết nối quá khứ với hiện tại. Ông Bằng vừa cúng xong, Hoài liền thế chân ông cụ bái lạy tiên tổ. Sau lễ cúng, mọi người hân hoan ngồi vào mâm cơm chiều 30 Tết, một mâm cơm sung túc, đủ đầy với đủ các món ăn truyền thống và thêm cả những món cầu kì do cô Lí chuẩn bị.
2. Tìm hiểu chung
a. Xuất xứ và hoàn cảnh ra đời
– Truyện trích trong phần II của tiểu thuyết cùng tên.
– Tác phẩm ra đời khi Ma Văn Kháng trở về Hà Nội và đất nước có những bước chuyển mình sau chiến tranh. Công cuộc đổi mới đó có ảnh hưởng sâu sắc tới từng gia đình – tế bào của xã hội.
b. Vị trí, tầm ảnh hưởng của tác phẩm
Tác phẩm đạt giải thưởng của Hội nhà văn Việt Nam năm 1986.
3. Tìm hiểu chi tiết
a. Nhân vật chị Hoài
* Mang vẻ đẹp của người phụ nữ nông thôn giản dị, mộc mạc, đằm thắm và đôn hậu
– Vẻ đẹp ngoại hình: “Người thon gọn trong cái áo lông trần hạt lựu. Chiếc khăn len nâu thắt ôm khuôn mặt rộng có cặp mắt hai mí đằm thắm và cái miệng cười rất tươi”.
– Vẻ đẹp tâm hồn:
+ Thùy mị, nết na, sống tình cảm với mọi người: thái độ thân mật, vui vẻ, lời nói ấm áp.
+ Có quá khứ đáng trân trọng và khâm phục: Là dâu trưởng, vợ liệt sĩ.
+ Là người giàu tình nghĩa, thủy chung, son sắt: Tuy đã lập gia đình mới nhưng vẫn lên thăm và mang quà cho nhà chồng cũ.
+ Là người phụ nữ bản lĩnh, đảm đang, biết vượt lên trên số phận: xây dựng gia đình mới, làm chủ nhiệm hợp tác xã,…
* Chị là mẫu người phụ nữ vẫn giữ được nét đẹp truyền thống quý giá trước những “cơn địa chấn” xã hội.
b. Cảnh sum họp trước giờ cúng tất niên
* Diễn biến tâm lý của ông Bằng và chị Hoài
– Ông Bằng:
+ Chuẩn bị tâm thế chỉn chu để cúng tất niên: “cố đi cho ngay ngắn”, phong thái “trang trọng, chỉnh tề hơn”; gương mặt “ánh lên cái cảm xúc… hai bên cằm”.
+ Bất ngờ và xúc động khi gặp lại chị Hoài: “sững lại”, “mắt ông chớp liên hồi… ông sắp khóc òa”, giọng rè rè, khàn đặc.
+ Yêu quý con dâu như ngày nào: ân cần hỏi han.
– Chị Hoài:
+ Xúc động sâu sắc khi gặp lại ông Bằng: “không chủ động được mình”, “lao về phía ông Bằng… hai hàng gạch hoa”, thốt lên tiếng chào như tiếng nấc.
+ Mừng rỡ, bồi hồi kể cho ông nghe về gia đình hiện tại của mình.
* Tình cảm gia đình vẫn sâu nặng như xưa: vẫn luôn quan tâm, chia sẻ và lo lắng cho gia đình này như trước. Đó là tấm lòng của những người có ý nghĩa như trụ cột. Họ có tình cảm đẹp, bền chặt và lối ứng xử đẹp.
* Lưu giữ được nét đẹp văn hóa truyền thống: Thờ cúng tổ tiên một cách trịnh trọng và trang nghiêm.
c. Giá trị nội dung
Thông qua câu chuyện xảy ra trong gia đình ông Bằng, một gia đình nề nếp, luôn giữ gia pháp nay trở nên chao đảo trong những cơn địa chấn từ bên ngoài, nhà văn bày tỏ niềm lo lắng sâu sắc cho giá trị truyền thống trước những đổi thay của thời cuộc.
d. Giá trị nghệ thuật
– Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật sinh động, hấp dẫn
– Nghệ thuật dẫn truyện tự nhiên
– Nghệ thuật khắc họa nhân vật tài tình
– Nghệ thuật dựng cảnh chân thực, tinh tế.
2. Hướng dẫn soạn bài Mùa lá rụng trong vườn – Ma Văn Kháng
Câu 1 (Trang 88 SGK Ngữ Văn 12 Tập 2):
– Chị Hoài là một người phụ nữ đôn hậu, chất phác. Dù hiện tại chị đã có gia đình riêng, ít liên quan đến gia đình nhà ông Bằng nhưng chị Hoài vẫn luôn quan tâm đến từng người và gắn bó với những biến động của gia đình người chồng cũ.
– Chị Hoài xuất hiện vào thời điểm rất có ý nghĩa: chiều 30 tết – ngày Tết cổ truyền của dân tộc.
→ Đây là thời điểm thiêng liêng nhất của tình cảm gia đình, đánh thức tình cảm thiêng liêng về gia tộc.
* Mọi người yêu quý và trân trọng chị bởi ở chị luôn toát lên những phẩm chất đáng quý: nhân hậu, tình nghĩa, thủy chung. Chị Hoài – hình tượng tiêu biểu của người phụ nữ Việt Nam truyền thống, chính là sợi dây kết nối, xóa đi những khoảng cách vô hình mà xã hội với nền kinh tế thị trường, với sự tính toán vụ lợi làm phá vỡ những giá trị tốt đẹp, làm nguội lạnh quan hệ tình cảm thiêng liêng trong gia đình.
Câu 2 (Trang 88 SGK Ngữ Văn 12 Tập 2):
Diễn biến tâm lí của nhân vật ông Bằng và chị Hoài trong cảnh gặp lại trước giờ cúng tất niên:
* Ông Bằng:
– “Nghe thấy xôn xao tin chị Hoài lên”
– “Ông sững lại khi nhìn thấy Hoài, mặt thoáng một chút ngơ ngẩn. Rồi mắt ông chớp liên hồi, môi ông bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc òa”.
– “Giọng ông bỗng khê đặc, khàn rè: Hoài đấy ư con?”
→ Nỗi vui mừng, xúc động không giấu giếm của ông khi gặp lại người đã từng là con dâu trưởng mà ông rất quý mến.
* Chị Hoài:
– “Gần như không chủ động được mình lao về phía ông Bằng, quên cả đôi dép, đôi chân to bản… kịp hãm lại khi còn cách ông già hai hàng gạch hoa”
– Tiếng gọi của chị nghẹn ngào trong tiếng “nấc” của ông.
→ Cảnh gặp gỡ vui mừng xen với những nối tiếc, đau buồn, lo lắng trước những cơn biến động của gia đình ông Bằng.
=> Sự có mặt của chị Hoài khiến nỗi cô đơn của ông Bằng được giải tỏa, như có thêm niềm tin trong cuộc đấu tranh giữ gìn những gì tốt đẹp trong truyền thống gia đình.
Câu 3 (Trang 88 SGK Ngữ Văn 12 Tập 2):
Khung cảnh ngày tết và dòng tâm tư cùng với lời khấn của ông Bằng trước bàn thờ:
– Gợi nhớ về cội nguồn, về các giá trị truyền thống của dân tộc.
– Phải biết giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp trong quá khứ: “mỗi dân tộc không có quá khứ là một dân tộc bất hạnh”.
3. Bài văn mẫu phân tích tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn của tác giả Ma Văn Kháng
Dàn ý
Mở bài
– Tác giả Ma Văn Kháng
+ Ma Văn Kháng tên khai sinh là Lê Trọng Đoàn sinh năm 1936, ông quê gốc ở Hà Nội sinh ra tại làng Kim Liên – Đống Đa.
+ Ông là em trai của Phó giáo sư Tiến sĩ Đinh Trọng Lạc – trưởng khoa ngữ văn đầu tiên của Đại học sư phạm Hà Nội 2.
+ Ông tốt nghiệp Trung cấp sư phạm tại Nam Ninh – Trung Quốc rồi tiếp tục con đường học vấn tại trường sư phạm Hà Nội, rồi lên công tác tác tại trường cấp 3 tỉnh Lào Cai với vị trí là giáo viên dạy văn.
– Sự nghiệp
+ Tác giả Ma Văn Kháng đã sáng tác một số lượng lớn tác phẩm ý nghĩa, được đánh giá cao như: Mùa lá rụng trong vườn, Vùng biên ải, Trăng non, Đồng bạc trắng hoa xòe,…
+ Với những tác phẩm của mình, ông đã nhận được nhiều giải thưởng văn học giá trị như: giải thưởng văn học ASEAN, giải thưởng nhà nước về văn học – nghệ thuật năm 2001, giải thưởng loại B của Hội nhà văn Việt Nam,…
+ Hẳn là do ông chuyển lên miền núi sống từ năm mười tám tuổi và đã ở đó một phần tư cuộc đời nên nội dung ông chọn để sáng tác thường là cuộc sống chân thực nơi núi sông và rồi khi về thủ đô ông cũng chọn viết về cuộc sống con người nơi đây.
– Tác phẩm
+ Đoạn trích trong chương II của tác phẩm cùng tên “Mùa lá rụng trong vườn”. Tiểu thuyết được tác giả hoàn thành vào năm 1982.
+ Tổng quan nội dung chính mà tác phẩm hướng đến là sự thay đổi trong con người Việt Nam thời kỳ hậu chiến tranh, bắt đầu vào nền kinh tế thị trường. Các giá trị văn hóa dần mai một theo hoàn cảnh và thời gian.
Thân bài
a. Nhân vật cô con dâu cả – chị Hoài
– Ngoại hình: trạc tầm năm mười tuổi, mang rõ dáng vẻ của một người phụ nữ thôn quê với dáng người thon gọn với cái áo bông trần hạt lựu, gương mặt hài hòa nhân hậu với cặp mắt hai mí rõ và khuôn miệng tươi tắn.
– Cô Hoài là con dâu cả của ông Bằng nhưng chồng cô mất khi tham gia chiến tranh.
– Chị đã mạnh mẽ vượt qua nỗi đau, tìm cho mình một gia đình mới. Cô có cho mình một người chồng và bốn đứa còn cả trai và gái.
– Dù đã thuộc về một gia đình khác nhưng cô vẫn quan tâm đến gia đình chồng cũ luôn liên lạc hỏi thăm.
– Cô đã đến thăm gia đình ông Bằng vào chiều 30 tết, cùng gia đình ăn bữa cơm đoàn viên
– Vừa đến nhà, cô đã thân thiết hỏi thăm tình hình của từng thành viên trong gia đình. Từ cô em dâu đến em trai chồng như không hề có khoảng cách giữa thời gian và không gian.
– Khi biết những vấn đề phát sinh trong gia đình chồng cũ, cô lo lắng cho ông Bằng, lo lắng cho các em nên vội vã đến thăm cả nhà, cùng họ vượt qua khó khăn.
– Thương các em, cô không ngại đường xá xa xôi mà tự mình vác quà, mang các món đặc sản quê hương đến để tặng mọi người.
– Khi chị Hoài xuất hiện, mọi người như được tiếp thêm sức mạnh, thêm niềm hạnh phúc ấm áp để cùng nhau đoàn kết vượt qua giai đoạn đất nước đổi mới, gia đình gặp nhiều biến cố khó khăn.
– Tuy khác máu mà không tanh lòng, dù không còn ở gần nhau nhưng chị Hoài vẫn là thành viên quan trọng trong gia đình ông Bằng. Cô như sợi dây kết nối để gắn kết các mối quan hệ, chung tay bảo vệ hạnh phúc của gia đình nhỏ bé.
b. Diễn biến tâm trạng của ông Bằng khi nghe tin người con dâu trở về
– Ông Bằng đang ở trên gác mà nghe tin chị Hoài đến, ông mừng khôn xiết, cố bước những bước ngay ngắn nhưng nhanh chóng xuống nhà để gặp cô.
– Ông luôn cố gắng kìm nén cảm xúc, khiến cho cảm xúc của mình khá hơn để khi xuất hiện không khiến cô con dâu lo lắng.
– Nhưng khi thấy người con đã xa cách chín năm không gặp, ông bỗng “thoáng chút ngẩn ngơ” như không tin vào mắt mình.
– Ngay sau đó ông nghẹn ngào vì vui mừng “mắt ông chớp liên hồi, môi ông lật bật không thành tiếng, có cảm giác ông sắp khóc òa”.
– Ông cất chất giọng khàn đặc của mình “Hoài đấy ư con”
– Ông Bằng còn nén xúc động, hỏi thăm gia đình mới của cô “Anh ấy và các cháu vẫn khỏe chứ con?”.
– Cuộc gặp gỡ với chị Hoài dường như khiến ông giảm được chút cô đơn, tiếp thêm sức chiến đấu cho người chủ gia đình đang nỗ lực hàng ngày để lấy lại những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình
c. Khung cảnh ngày Tết truyền thống của miền Bắc Việt Nam
– Bàn thờ gia tiên nghi ngút khói hương
– Mâm cỗ thịnh soạn với các món truyền thống của người Hà Nội: bánh chưng, nem rán, giò chả, gà tần hạt sen,…
– Quan trọng hơn là mọi người đều trở về, cùng nhau thành kính mỗi người chuẩn bị một việc cho buổi cúng Tết
– Ông Bằng nghiêm trang, trang phục chỉnh tề đứng trước bàn thờ chủ trì buổi lễ. Đây chính là khung cảnh của buổi lễ Tết của người Hà Nội xưa.
– Lời khấn của ông Bằng như một lời tưởng nhớ với những người đã mất như tổ tiên, ông bà,…một cách thiêng liêng và thành kính nhất.
– Đây như sự giao lưu giữa hai thế hệ, dù dòng chảy thời gian không bao giờ ngừng nhưng luôn có sự kế nhiệm những truyền thống tốt đẹp với nhau.
– Bữa cơm này như một buổi họp gia đình, cả nhà cùng nhau nhìn lại một năm qua đã trải qua những gì.
Kết bài
– Qua tác phẩm Mùa lá rụng trong vườn, tác giả Ma Văn Kháng đã mang vào rất nhiều tư liệu thực tế về cuộc sống ngày Tết của người dân Hà Nội.
– Tuy khó khăn về kinh tế, cuộc sống cũng đổi thay nhanh chóng nhưng tác giả cũng như rất nhiều người truyền thống vẫn luôn ngày ngày nỗ lực giữ lại những nét văn hóa, nhưng phong tục phẩm chất của con người Hà Nội xưa. Trước tình hình đạo đức có phần suy tàn, con người dần biến chất, tác phẩm cũng là lời cảnh tỉnh kêu gọi mọi người nhận ra được giá trị của văn hóa cổ xưa.
Bài mẫu
Tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn là tác phẩm tiêu biểu của tác giả Ma Văn Kháng. Đây là tác phẩm tiêu biểu dẫn đầu cho văn học hiện đại đổi mới của giai đoạn cuối thế kỷ XX.
Câu chuyện kể về cuộc gặp gỡ ngày 30 Tết của gia đình ông Bằng với người con dâu cũ – chị Hoài. Đã rất lâu rồi Phượng không được gặp lại người chị dâu cả thân thiết của mình, lần cuối cùng gặp là vào ngày cưới của cô. Chị vừa về đến nhà đã được hai cô em nhiệt tình ra đón, cô về đúng lúc cả nhà đang mỗi người một việc chuẩn bị cho lễ cúng Tất niên đêm ba mươi Tết. Hẳn là do đúng thời điểm quan trọng này nên buổi hội ngộ càng trở nên thiêng liêng hơn bao giờ hết. Tác giả đã mô tả ngoại hình của Hoài qua con mắt của Phượng với hình ảnh người phụ nữ thôn quê chân chất trạc năm mươi tuổi, dáng người thon gọn trong chiếc áo bông chần hạt lựu. Gương mặt chị có cặp mắt hai mí rất sáng với khuôn miệng tươi, được che chắn bởi chiếc khăn len màu nâu ấm áp. Chị xách theo tay nải khá nặng, dáng vẻ tuy không ngơ ngác xa lạ nhưng lại đậm cảm giác bồi hồi nhớ thương. Tác giả rất tinh tế khi diễn tả tâm lý tình cảm nhân vật, trong suy nghĩ và trí nhớ của Phượng, chị Hoài chỉ hiện lên rất dịu dàng giản đơn nhưng lại rất sâu đậm. Dù không nhận ra ngay từ cái nhìn đầu tiên nhưng chỉ qua một câu hỏi xã giao nhanh chóng, cô đã nhận ra người chị dâu thân thiết của mình. Chị Hoài cũng vậy, dù gần một thập kỷ xa cách nhưng một câu hỏi tu từ của chị cũng đủ để thể hiện cô nhớ ngôi nhà, nhớ từng con người trong gia đình như thế nào “Cô Phượng đấy như?”.
Ngay sau tiếng reo vui vẻ của Phượng, cô lập tức gọi mọi người ra đón. Anh Đông, chị Lý, Anh Luận nhanh chóng ùa ra đón chị với biểu cảm khó tin được, nửa tin nửa ngờ khi nhìn thấy chị. Có thể thấy việc chị Hoài xuất hiện ở thời điểm này là điều ngoài sức tưởng tượng của mọi người, khi chị đến thăm gia đình – đúng chiều ba mươi Tết. Cô đã rời gia đình này từ chín năm trước, khi người chồng cũ của cô – anh Tường hy sinh khi tham gia chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Cô đã mạnh mẽ vượt qua nỗi đau, xin bố mẹ chồng cho cô đi thêm bước nữa, tìm cho mình một gia đình mới sau thời gian dài để tang chồng. Nhưng dù có đi đâu cô vẫn luôn nhớ về gia đình cũ, nhớ về những người từng thân thiết nhất với mình. Khi cô trở về cũng là lúc mọi người trong gia đình bồi hồi nhất, họ nhớ đến người chị dâu trưởng đẹp người đẹp nết, luôn đối xử với mọi người rất tốt. Nhưng mọi người cũng hiểu rõ, dù nhớ dù thương cũng không thể giữ chị ở lại bởi giờ đây chị đã có một gia đình riêng, có những công việc lo toan riêng. Dù chị vẫn luôn giữ quan hệ rất gắn bó với gia đình này nhưng dù sao đây cũng là nơi để lại cho chị những kỷ niệm đau buồn mà chị có thể quên đi. Nhưng chị vẫn luôn ẩn mình trong gia đình đó, dù xa xôi nhưng mỗi khi gia đình có việc dù buồn dù vui chị đều quay về. Đó là khi mẹ chồng mất, chị cũng chủ động về chịu tang. Vào ngày cưới của Luận và Phương chị cũng về chúc mừng chia vui và giờ đây khi mà nhận được tin của cậu Cừ, chị cũng nhanh chóng trở về dù khi đó đã là ngày ba mươi Tết. Chị vẫn về thắp hương cho anh Tường, người chồng cũ đi đánh giặc không thể trở về, vẫn sợ cụ Bằng buồn mà bỏ cả công việc, bỏ cả gia đình nhỏ để trở về an ủi mọi người. Nhưng gia đình mới của chị cũng rất tốt, chồng mới và con cô rất hiểu chuyện và luôn ủng hộ cô khi hai đứa con cô vẫn luôn nhét quả vào tay nải, giục cô mau đi “Mẹ đi đi, không ông buồn, các chú, các cô mong!”. Tay nải đầy nặng quà quê, với nếp tăng sản nhà trồng, với cây giỏ thủ chồng cô gói, với túi bột sắn dây và cả gói hạt giống mướp hương. Tuy những món quá không quá giá trị về mặt vật chất nhưng về tinh thần nó là vô giá, không gì có thể sánh bằng.
Khi ông Bằng biết người con dâu cũng sau nhiều năm xa cách về thăm, ông liền nhanh chóng chống batoong xuống cầu thang để gặp cô. Ông Bằng già đi rất nhiều, da đã xệ xuống, trên trán hằn đầy nếp gấp của thời gian đầy nỗi buồn suy tư. Nhưng ông vẫn luôn giữ được thói quen chỉn chu sang trọng với bộ comple đen kẻ sọc mờ, cài khuy chéo. Khi thấy Hoài, ông dường như không tin nổi mà sững đi trong vài giây, ông “sững lại”, “ngẩn ngơ”, mắt ông chớp liên tục, miệng nói không thành tiếng, ông như muốn òa khóc. Chị Hoài cũng không kém phần xúc động khi thấy bố, cô về phía ông Bằng, nghẹn ngào nấc lên tiếng “Ông”. Cụ Bằng cũng cố bình tĩnh lại, cất chất giọng khản đặc “Hoài đấy ư, con?”. Hai người cũng khóc, ông Bằng khóc, chị Hoài khóc, khóc vì niềm hạnh phúc bất ngờ. Ông Bằng nén lại xúc động hỏi thăm gia đình cô “Anh ấy và hai cháu vẫn khỏe cả chứ, con?”. Với ông Bằng cô hay chồng cũng đều là con ông, con cô cũng là những đứa cháu của ông. Chị Hoài lễ phép mà nhanh chóng trả lời ông, kể người chồng người con của cô đã mong được gặp ông đến như thế nào “Lẽ ra, anh ấy thu xếp công việc được cũng lên kính thăm ông dịp này. Cả các cháu nữa, bốn đứa, đứa nào cũng đòi đi. Nhất là thằng lớn, nó cứ bảo mấy lần nó qua Hà Nội mà chưa được vào nhà thăm ông, lần này rỗi rãi nó phải đi…”
Buổi tiệc cúng Tất niên của gia đình ông Bằng chính là nét đẹp truyền thống của người dân Việt Nam nói chung, người dân phía Bắc nói riêng. Đây chính là lễ truyền thông nơi kinh kỳ phản ánh được văn hóa đẹp đẽ nhớ về tổ tiên của mỗi gia đình Việt Nam. Bàn thờ gia tiên càng đủ đầy càng nói lên được những mong muốn hy vọng cho một năm mới tốt hơn của mỗi người. Bàn thờ gia tiên của nhà ông Bằng cũng vậy, luôn đủ đầy mọi thứ. Trên đó có ngọn đèn dầu lim dim mờ ảo, luôn nghi ngút khói hương, ở giữa là ảnh thân phụ thân mẫu ông Bằng, bên trái là bức di ảnh của bà Bằng tóc vấn khăn nhung mặt hoa da phấn, bên phải là ảnh anh Tường với áo trấn thủ ô quả trám và mũ ca lô nghiêng. Bàn thờ bày đầy đủ mâm ngũ quả, có cả cặp bánh chưng xanh được buộc lạt điểu, có thêm những chén rượu nhỏ được bày ngang trước ban thờ. Ông Bằng vẫn như mọi lần, làm chủ buổi lễ. Nay đã già, mái tóc bạc còn lơ thơ vài sợi, thành tâm chắp tay khấn trước ngực thì thầm khấn “Thưa thầy mẹ đã cách trở ngàn trùng mà vẫn hằng sống cùng con cháu. Con văng vẳng nghe đâu đây giáo huấn của ông cha tiên tổ. Con vẫn đinh ninh ghi khắc công ơn sinh thành dưỡng dục của thầy mẹ, gia tộc, ông bà, tổ tiên…”. Sau đó ông khấn bà Bằng, khấn cậu cả Tường “Và em, cùng con trai cả của ba mẹ. Em cùng con đã mất và vẫn hằng sống, hằng vui buồn, chia sẻ, đỡ nâng dìu dắt tôi cùng các cháu, các con, các em…” Qua lời khấn của ông, chính chúng ta cũng có thể thấy được rằng hiện tại không bao giờ có thể cắt khỏi quá khứ, ông bà tổ tiên cũng không bao giờ rời xa con cháu cũng như những người ở lại luôn luôn nhớ tới những người đã mất. Tất cả những điều đó biến thành một dòng chảy thời gian không thể cắt rời, thủy chung mà bền chặt. Nhưng những lời khấn của ông Bằng dù rất thành kính nhưng lại run run, tâm trạng ông lâng lâng, khóe mắt cay xè, trong lòng ngổn ngang suy nghĩ khi ông đã cứng rắn loại bỏ tên thằng út Cừ ra khỏi lời khấn. Các con ông đứng ngay ngắn phía sau ông, xúc động với từng lời nói của ông. Chị Hoài ánh mắt “đăm đắm ngước lên bàn thờ”, rồi khi cha khấn xong vừa buông tay chắp lui ra chị đã nhanh chóng “liền thế chân ông cụ, hai tay nâng lên trước ngực”.
Dù có ở thời đại nào, dù có đổi thay ra sao thì tâm hồn của con dân Việt Nam vẫn thật sáng trong đẹp đẽ. Phong tục bản sắc văn hóa Việt Nam cũng thật đẹp, thật đáng để cho ta tự hào. Ông Bằng và các con cũng như mỗi người dân đều đang ngày ngày cố gắng lưu giữ được những nét truyền thống đó và giữ gìn phát huy đến các đời sau. Nét truyền thống đáng quý đấy còn thể hiện qua mâm cơm cúng Tết với đầy đủ các món đặc sản Hà Nội do tay cô bếp trường Lý – gái Hà Nội gốc đứng ra phụ trách chuẩn bị. Mâm cơm đầy đủ món ăn ngon mắt ngon miệng mà nhìn thôi cũng thấy thèm như: nem, giò chả, gà luộc, chân giò hầm măng, miến nấu lòng gà, rau củ xào, vịt hầm hạt sen, vịt tần, gà quay húng lìu,…Cô Lý đã rất tỉ mỉ chế biến từng món ăn, kỳ công nhất vẫn là món mọc. Đây không chỉ là một cô gái Hà Thành đầy đủ năng lực nữ công gia chánh mà còn thể hiện cô rất coi trọng bữa cỗ này, cô thành kính với gia tiên trên từng món ăn. Chính chương hai này tác giả Ma Văn Kháng đã thể hiện rõ nhất nét đẹp của văn hóa ngày Tết của người Hà Nội xưa. Cũng là cách ông tri ân, tôn vinh nét đẹp tâm hồn của con người Hà Nội qua từng nhân vật. Ông Bằng, cô Hoài, cô Lý,…mỗi người mỗi nét cá tính khác nhau, mỗi cách thể hiện khác nhau nhưng tề chung lại đều là những con người tốt đẹp luôn lưu giữ nét văn hóa Hà Nội xưa dù nó đang dần mai một mỗi ngày.