I. Tìm hiểu chung về tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta – Phan Châu Trinh
1. Tác giả Phan Châu Trinh
a. Tiểu sử
– Phan Châu Trinh (1872 – 1926), tự Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hi Mã.
– Quê: Tam kỳ, Quảng Nam.
– Sinh ra trong thời đại đất nước có nhiều biến động:
+ Phong trào Cần Vương chống Pháp (1885 – 1896) nổ ra và thất bại.
+ Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng về đường lối đấu tranh và giai cấp lãnh đạo.
– Là một sĩ phu yêu nước lớn đầu thế kỉ XX:
+ 1901: Ông đỗ Phó bảng năm Tân Sửu, làm quan trong thời gian ngắn rồi rời quan trường đi làm cách mạng.
+ 1906: Mở cuộc vận động Duy Tân.
+ 1908: Phong trào chống thuế ở Trung Kỳ nổ ra, thất bại và Phan Châu Trinh bị bắt giam ở Côn Đảo.
+ 1911: ông sang Pháp bí mật xây dựng tổ chức cách mạng.
+ 1925: về nước tiếp tục diễn thuyết đề cao dân chủ.
+ 1926: Phan Châu Trinh mất.
⇒ Phan Châu Trinh là một nhà hoạt động chính trị – xã hội lớn của dân tộc Việt Nam.
b. Sự nghiệp văn học
– Quan điểm sáng tác: Phan Châu Trinh luôn có ý thức dùng văn chương để làm cách mạng, dùng ngòi bút chống lại kẻ thù.
– Sự nghiệp sáng tác:
+ Thể loại: sáng tác cả văn xuôi chính luận và thơ trữ tình yêu nước cách mạng.
+ Tác phẩm chính: Đầu Pháp chính phủ thư (1906); Thất điều trần (1922); Đạo đức và luân lí Đông Tây (1925)…
2. Tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta
a. Vị trí đoạn trích và hoàn cảnh sáng tác
– Vị trí đoạn trích: Về luân lí xã hội ở nước ta nằm trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây.
– Hoàn cảnh sáng tác: 19 – 11 – 1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn.
b. Thể loại và phương thức biểu đạt
– Thể loại: Văn bản diễn thuyết (Văn chính luận)
– Phương thức biểu đạt: Nghị luận
c. Bố cục
– Phần 1 (Từ đầu -> từ lâu rồi): Ở nước ta chưa có luân lí xã hội, mọi người chưa có ý niệm về luân lí xã hội.
– Phần 2 (tiếp -> cũng vì thế): Tác giả trình bày thực trạng, phân tích nguyên nhân mà luân lí xã hội ở Việt Nam hiện thời chưa có.
– Phần 3 (còn lại): Giải pháp để có luân lí xã hội ở nước ta.
d. Giá trị nội dung
– Tác phẩm thể hiện tinh thần yêu nước và tư tưởng tiến bộ của tác giả.
– Đề cao tư tưởng đoàn kết, dân chủ công bằng hướng tới ngày mai tươi sáng của dân tộc.
e. Giá trị nghệ thuật
– Phong cách chính luận lập luận rõ ràng.
– Lý lẽ sắc bén.
– Dẫn chứng thuyết phục.
– Giọng điệu đa thanh: lúc mềm mỏng, từ tốn, lúc kiên quyết đanh thép, lúc mạnh mẽ, lúc nhẹ nhàng…
g. Tóm tắt
Luân lí xã hội ở nước ta tuyệt không ai biết đến. Sở dĩ thiếu luân lý xã hội là bởi người nước ta không biết cái nghĩa vụ loài người ăn ở với loài người, không biết nghĩa vụ của mỗi người trong nước đối với nhau, dẫn đến tình trạng ai sống chết mặc ai, người này không biết quan tâm đến người khác. Đó là do thiếu ý thức đoàn thể, chưa biết giữ quyền lợi chung, chưa biết bênh vực nhau. Xưa dân ta cũng đã có ý thức đoàn thể nhưng nay đã xa sút. Nước ta chưa có luân lý xã hội còn do bọn vua quan chỉ biết quyền lợi ích kỷ của chúng, chỉ biết mua quan bán tước, dân càng nô lệ thì ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý. Nay nước Việt Nam muốn được tự do, độc lập thì trước hết dân ta phải có đoàn thể. Mà muốn có đoàn thể thì phải tuyên truyền XHCN.
II. Dàn ý chung phân tích tác phẩm Luân lí xã hội ở nước ta của Phan Châu Trinh
A. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả Phan Châu Trinh (những nét chính về tiểu sử, con người, các tác phẩm chính, đặc điểm sáng tác,…).
– Giới thiệu khái quát về bài “Về luân lí xã hội ở nước ta” (vị trí đoạn trích, những đặc sắc về giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật,…).
B. Thân bài
a. Nếu vấn đề: Khẳng định nước ta chưa có ai biết đến luân lí
– Tác giả cho rằng “Xã hội luân lí thuật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến”
– Nêu lên vấn đề chưa có luân lí ở nước ta.
– Phủ nhận vấn đề xuyên tạc, ngộ nhận luân lí ở nước ta của một số người
→ Cách vào vấn đề một cách trực tiếp và lời khẳng định vấn đề, tác giả Phan Châu Trinh không những đã khẳng định nước ta không có luân lí mà hơn thế nữa còn phủ nhận, bác bỏ những cách hiểu đơn giản, nông cạn, hời hợt, sai lệch về vấn đề luân lí xã hội ở nước ta.
b. Thực trạng và nguyên nhân về luân lí ở nước ta trong sự đối sánh với châu Âu
* Ở châu Âu:
– Không những đã có xã hội luân lí mà nó còn rất thịnh hành
– Nguyên nhân: Có tinh thần đoàn kết, có tinh thần dân chủ, có trình độ văn hóa và biết nhìn xa trông rộng.
* Ở nước ta:
– Xã hội luân lí thực sự chưa có mấy ai biết đến
– Nguyên nhân:
– Con người nước ta “không biết đến đoàn thể, không trọng công ích”, ý thức dân chủ kém.
– “Ham quyền tước, ham bả vinh hoa” của học trò, của vua quan trong các triều đại phong kiến.
– Chế độ vua quan chuyên chế bảo thủ, lạc hậu kéo dài.
→ Tác giả đã chỉ ra một cách rõ ràng thực trạng của luân lí xã hội ở nước ta và nguyên nhân của thực trạng đó với một thái độ đau xót, phẫn uất cho tình cảnh của người dân.
c. Giải pháp, chủ trương truyền bá tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho người Việt
– Dân ta cần phải có đoàn thể
– Phải “truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam”
C. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của bài “Về luân lí xã hội ở nước ta” và nêu cảm nghĩ của bản thân.
III. Viết đoạn văn ngắn phân tích tác phẩm “Về luân lí xã hội ở nước ta” của Phan Châu Trinh
1. Chủ trương gây dựng nên nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay có còn ý nghĩa thời sự không? Tại sao?
Với một tư tưởng tiến bộ và tầm nhìn vượt thời, tư tưởng gây dựng nên nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay vẫn còn có ý nghĩa thời sự.
Bởi lẽ, về bản chất, nền luân lí xã hội ở Việt Nam mà Phan Châu Trinh mong muốn chính là một xã hội có công đức tức là ý thức sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác.
Sự thực là xã hội hiện nay của ta đang cần một ý thức như thế bởi con người quá hẹp hòi, ích kỷ, nhỏ nhen chỉ biết đến lợi ích của mình mà không biết đến lợi ích chung của cả cộng đồng.
Việt Nam là một nước có tỉ lệ người tốt nghiệp Đại học cao, số lượng Giáo sư, Tiến sĩ cũng nhiều, song lại là một trong những quốc gia chưa có đóng góp gì lớn cho sự tiến bộ của loài người. Điều đó có nghĩa, chúng ta vẫn không biết được nghĩa vụ của con người với con người trong xã hội là gì, vẫn chỉ là danh tiếng và lợi ích cá nhân mà thôi.
2. Có thể cảm nhận được gì về tấm lòng của Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này
Thông qua đoạn trích Về luân lí xã hội ở nước ta người đọc có thể cảm nhận được tấm lòng của một con người yêu nước nồng nàn. Bản thân là một người học rộng, hiểu biết, khao khát cả đời của Phan Châu Trinh là cứu dân, cứu nước thoát khỏi sự thống trị của thực dân Pháp. Khao khát ấy được bộc lộ ngay trong lập luận, tư tưởng của ông khi muốn cách tân đất nước, xây dựng một hệ thống luân lí xã hội. Ông có một tầm nhìn rất xa và một tư tưởng tiến bộ. Chứng kiến cảnh đất nước bị đô hộ, ngày càng trở nên xuống cấp, ông đã tìm được căn nguyên gốc rễ của sự đồi bại, nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không tôn trọng công ích. Bằng một phong cách chính luận độc đáo, với giọng điệu biến đổi linh hoạt, ông đã phơi bày thực trạng đen tối của xã hội, thể hiện nỗi căm ghét đến tận xương tủy bọn vua tôi, quan lại của chế độ phong kiến thối nát. Đồng thời ta cũng thấy được dũng khí của một người nam nhi đứng giữa thời cuộc rối ren, thật giả, trắng đen lẫn lộn và nỗi đau xót, thương cảm của ông với những người đồng bào của mình đang bị chà đạp, bóc lột, sách nhiễu.
IV. Danh sách đề thi phân tích đoạn trích “Về lí luận xã hội ở nước ta” của Phan Châu Trinh
1. Phân tích tính thời sự của văn bản “Về lí luận xã hội ở nước ta” của Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872 – 1926) quê ở Quảng Nam, biệt hiệu là Hy Mã, là một trong những chiến sĩ cách mạng lỗi lạc của nước ta trong ba thập niên đầu thế kỉ XX. Phan Châu Trinh để lại nhiều thơ văn yêu nước và là chiến sĩ tiên phong nêu cao ngọn cờ duy tân… mở mang dân trí, tự cường, chống thực dân và bọn vua quan tay sai. Bài “Về luân lí xã hội ở nước ta” là một phần trích trong tác phẩm “Đạo đức và luân lí Đông Tây ” của Phan Châu Trinh viết năm 1925. Có thể coi đây là một văn bản bình luận về một vấn đề chính trị – xã hội, một vấn đề mang tính lịch sử bức thiết của nhân dân ta thời bấy giờ và đến nay ít nhiều vẫn còn mang tính thời sự.
Phần đầu văn bản, cụ Phan nêu lên vấn đề: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến”. Hai chữ “tuyệt nhiên” là cách nói khẳng định của tác giả. Khái niệm “luân lí xã hội” tức là luân lí, đạo đức của chủ nghĩa xã hội coi trọng sự bình đẳng và ý thức nhân quyền, không chỉ thể hiện mối quan hệ của con người trong mỗi gia đình, trong mỗi quốc gia mà còn là mối quan hệ giữa con người với con người trong cộng đồng xã hội rộng lớn.
Cụ Phan bình luận: “Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được”. Còn tư tưởng “bình thiên hạ” trong câu: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Khổng Mạnh thì “mất đi đã từ lâu rồi”. Hai tiếng “võ vẽ” trong câu: “Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó (hai chừ thiên hạ”) nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi”, đã thê hiện thái độ châm biếm, khinh bỉ đối với bọn đạo đức giả trong xã hội thực dân nửa phong kiến.
Phần thứ hai, Phan Châu Trinh chứng minh và bình luận thực trạng luân lí, đạo đức của xã hội ta thời bấy giờ (thời Pháp thuộc). Tác giả cho biết xã hội luân lí bên châu Âu rất thịnh hành và phát triển. Vì mỗi người dân đều “có đoàn thể”, có ý thức về nhân quyền dân chủ và bình đẳng) đấu tranh chống áp bức, bóc lột. Còn dân mình thì “phải ai tai nấy, ai chết mặc ai!”. Thật đáng buồn là dân ta đi đường gặp người bị nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua “…
Sống thì phải biết bênh vực nhau. Ông cha mình ngày xưa đã hiểu đến nên mới có những câu tục ngữ: “Không ai bẻ đũa cả nắm”,”Nhiều tay làm nên bộp”. Tác giả dùng lập luận tương phản để nêu lên hiện tượng đáng buồn của dân ta: “Thế thì dân tộc Việt Nam ngay hồi cơ sở cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng góp gió làm bão, gom cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo. sợ sệt. ù lì như ngày nay”.
Tác giả chỉ ra nguyên nhân của sự thoái hoá luân lí xã hội ở nước ta trong ba bốn trăm năm trở về đây là do bọn học trò (tầng lớp kẻ sĩ, trí thức trong xã hội phong kiến, trong chế độ thực dân nửa phong kiến) gây ra: mắc ham quyền tước, ham bá vinh hoa, giá dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Chúng tham lam, hám địa vị “muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi, bèn kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân”.
Đám quan trường bị tác giả “phơi mặt”, lên án một cách nghiêm khắc. Chúng vô trách nhiệm và coi thường nhân dân. Chúng ra sức vơ vét làm giàu. Chúng ham mồi phú quý. Cụ Phan Châu Trinh đã tạo nên những câu cảm thán, sử dụng tài tình điệp ngữ và tăng cấp làm cho lí lẽ sắc bén, giọng văn khinh bỉ sâu cay: “Dân khốn mà chi ! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi ! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, “một nhà làm quan một nhà có phước”, è,dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai”. Đạo đức suy đồi đến cùng cực, bọn hãnh tiến, bọn cơ hội nhan nhản đó đây: “Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ ham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được “.
Bọn quan lại ấy là lớp người như thế nào? Hoặc là bọn Nho học “đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ”. Hoặc là bọn Tây học “đã được cái chức kí lục, thông ngôn; có khi là bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa “. Đầu thế kỉ XX, tác giả bài thơ Á tế Á ca ” đã châm biếm, viết:
“Kẻ chức bồi, người tước cu li
Thông ngôn, kí lục chi chi
Mãn đời lính tập, trọn vì quan sang”
Hai ba mươi năm sau Phan Châu Trinh đã khinh bỉ gọi đám quan trường ấy là “lũ ăn cướp có giấy phép “. Lũ tham quan ô lại trong xã hội thực dân nửa phong kiến đã bị cụ giáng cho một đòn chí mạng, làm cho “nhà cầm quyền trông gió cũng gai ghê!”
Một thực trạng đáng buồn nữa là có không ít người trong xã hội cũng “bén mùi làm quan”. Có bài ngà, có Bắc đẩu bội tinh đeo lủng lẳng trước ngực thì lấy thế làm vinh, chạy chọt được cái Cửu phẩm, thì nở mày nở mặt, mổ trâu bò ăn khao! Vì thế, anh nhiêu, ông xã, những kẻ ở vườn “Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược nào chạy xuôi, dầu có ruộng dầu bán trâu cũng vui lòng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới thôi”.
Vì thế nền đạo đức, luân lí sao không khỏi băng hoại. Nhà cách mạng cay đắng cất lời than: “Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế”. Những lời cảm thán cất lên vừa đau buồn, cay đắng, vừa chua xót!
Phần cuối văn bản, Phan Châu Trinh đưa ra hướng chữa trị căn bệnh “luân lí xã hội ở nước ta”: phải có đoàn thể\ phải truyền bá xã hội chủ nghĩa. Tác giả đã dùng cách lập luận móc xích làm cho lí lẽ sắc bén, thuyết phục: “Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này “. Sau hơn chín mươi năm (1925 – 2018) đọc bài “Về luân lí xã hội ở nước ta”, ai cũng cảm thấy mình đang được tham dự buổi diễn thuyết của cụ Phan Châu Trinh vào tháng 11 năm 1925 tại Sài Gòn.
Bút pháp nghị luận của Phan Châu Trinh thật đặc sắc: lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, mọi dẫn chứng nêu ra thật chí lí, đích đáng đầy sức thuyết phục. Tác giả đã dùng lời lẽ và giọng văn chua cay đế châm biếm thực trạng luân lí xã hội ở nước ta thời bấy giờ. Bọn quan trường đã bị giáng những đòn đau điếng.
Đọc bài văn của Phan Châu Trinh, ta càng thấy rõ công việc xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, cuộc sống mới là vô cùng cấp thiết và quan trọng. Đạo đức là cái gốc của con người; luân lí là nền tảng của xã hội. Có đả phá được những tư tưởng hủ lậu, có xây dựng được nền luân lí, đạo đức xã hội chủ nghĩa thì mới có thể làm cho đất nước phát triển, giàu mạnh, và làm cho dân tộc Việt Nam ngày một văn minh. Bởi vậy, bài văn của Phan Châu Trinh ra đời cách đây gần một thế kỉ song đến nay nó vẫn còn là lời nhắc nhở có ý nghĩa.
2. Cảm nhận về tấm lòng và tầm nhìn của Phan Châu trinh qua đoạn trích “Về luân lí xã hội ở nước ta”
Trong số những nhà chí sĩ yêu nước nhiệt huyết với con đường giải phóng dân tộc, Phan Châu Trinh là một trong những gương mặt tiêu biểu với tư tưởng dân chủ: “Khai dân trí”, “Chấn dân chí”, “Hậu dân sinh”. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua tác phẩm “Về luân lí xã hội của nước ta” – một trích đoạn từ “Đạo đức và luân lí Đông Tây”. Đoạn trích đã thể hiện rõ quan điểm, tư tưởng,lập trường chính trị cũng như tấm lòng yêu nước mãnh liệt và tầm nhìn tiến bộ của nhà chí sĩ yêu nước Phan Châu Trinh.
Trước hết, “Về luân lí xã hội của nước ta” đã thể hiện rõ tinh thần, tấm lòng yêu nước mãnh liệt của tác giả. Là một nhà nho có tưởng yêu nước tiến bộ, ông trực tiếp thể hiện niềm đau xót của bản thân trước tình hình hiện tại của đất nước, đồng thời mạnh mẽ cất lên tiếng nói tố cáo, lên án những hiện tượng tiêu cực tồn tại trong đời sống kinh tế – xã hội của dân tộc ta thời bấy giờ. Với cảm quan và nhận thức tiến bộ, ông nhận ra trong khi “cái xã hội chủ nghĩa bên u châu đã rất thịnh hành” thì đất nước ta vẫn chìm trong cơn ngủ say: “điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì”, “người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai!”, bon chen chạy theo con đường danh lợi để thỏa mãn tham vọng của bản thân. Tác giả đã tái hiện bức tranh của xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX một cách trực tiếp và không hề né tránh sự thật. Ông thẳng thắn nhìn nhận, tố cáo và vạch trần mảng tối của đời sống con người qua những tình huống cụ thể. Đó là tầng lớp kẻ sĩ ham vinh hoa phú quý, “chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân”, là chế độ phong kiến với sự mục nát, hủ bại qua những viên quan không ngần ngại tham nhũng, vơ vét “mồ hôi xương máu” của nhân dân, “mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên”, “áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới”. Trước thực trạng đó, với tấm lòng của một trái tim đang bừng cháy ngọn lửa yêu nước, Phan Châu Trinh đã kêu gọi mọi người cùng nhau chung tay đứng lên chấn hưng lại đất nước bằng con đường xã hội chủ nghĩa: “Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do, độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này”. Như vậy, qua những gì đã phân tích, chúng ta có thể thấy được tấm lòng yêu nước, thương dân của tác giả qua khát vọng giải phóng, đổi mới đất nước.
Là gương mặt tiêu biểu và là một trong những ngọn cờ đầu của phong trào Duy tân thế kỉ XX, Phan Châu Trinh có cái nhìn vô cùng sâu sắc và tiến bộ về con đường cách mạng, vượt thoát tầm nhìn hạn hẹp để nhìn nhận sự đổi mới không ngừng của thế giới. Quan điểm chính trị đó được thể hiện thông qua việc đề cao tư tưởng dân chủ, kêu gọi đề cao dân trí và xây dựng đoàn thể. Bằng hệ thống lập luận chặt chẽ, trước hết tác giả khẳng định ở nước ta chưa có một nền luân lí xã hội: “Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả”. Chính vì vậy mà tham quan lộng hành và nhân dân chìm trong những đêm dài nô lệ. Trước thực trạng đó, ông thẳng thắn kêu gọi mọi người đứng lên thay đổi đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa thông qua việc xây dựng đoàn thể.
Như vậy, qua đoạn trích “Về luân lí xã hội của nước ta”, chúng ta có thể thấy được tấm lòng yêu nước mãnh liệt cũng như tầm nhìn cách mạng mới mẻ, tiến bộ của Phan Châu Trinh. Bằng hệ thống lập luận chặt chẽ, lôgic, ông đã đem đến một luồng gió mới và những đóng góp tích cực cho phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX.
3. Về luân lí xã hội ở nước ta (trích Đạo đức về luân lí Đông Tây của Phan Châu Trinh) toát lên dũng khí của một người yêu nước và bộc lộ phong cách chính luận độc đáo. Anh (chị) hãy làm rõ văn kiện trên qua phân tích đoạn trích.
Những năm đầu thế kỉ XX, nhà chí sĩ cách mạng yêu nước Phan Châu Trinh đã khuấy lên phong trào Duy Tân, mục đích cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó nà tạo nên độc lập quốc gia. Phan Châu Trinh luôn có ý thức dùng văn chương để làm cách mạng. Những áng văn chính luận của ông đẩy tính hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép, thấm nhuần tư tưởng yêu nước và dân chủ. Bài diễn thuyết Về luân lí xã hội ở nước ta toát lên dũng khí của một người yêu nước và bộc lộ một phong cách chính luận độc đáo.
Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoạn trích trong phần III của tác phẩm Đạo đức và luân lí Đông Tây được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19 tháng 11 năm 1925 tại nhà Hội Thanh niên ở Sài Gòn (nay là Thành phố Hồ Chí Minh). Bài diễn thuyết giao tiếp trực tiếp với công chúng, cụ thể ở đây là những đồng bào thân yêu của mình cùng đau nỗi đau mất nước và đang muôn chia sẻ với tác giả những trăn trở trong, việc xác định con đường đi cho xã hội. Bài diễn thuyết đã bộc lộ tâm huyết cũng như tài năng hùng biện cùng với sự sâu sắc về tư tưởng, sự nồng nhiệt về cảm xúc của người nói.
Dũng khí của một nhiệt huyết yêu nước được thể hiện ngay trong vấn đề đặt ra của bài diễn thuyết: Luân lí xã hội. Đó là vấn đề mới ở nước ta. Luân lí xã hội là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm tới từng gia đình, từng quốc gia mà còn đến cả thế giới. Theo Phan Châu Trinh, trong xã hội Việt Nam lúc đó cả luân lí gia đình lẫn luân lí quốc gia tiều đã tiêu vong. Đây chính là nguyên nhân gốc của tình trạng mất nước. Tác giả đã không ngần ngại đặt vấn đề một cách thẳng thắn, đánh tan những ngộ nhận của người nghe về hiểu biết của họ đối với vấn đề luân lí xã hội: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết, so với quốc gia thì người mình còn dốt nát hơn nhiều”.
Biết nhìn thẳng vào vấn đề, dũng khí của người viết còn chỉ ra sự kém cỏi của “bên mình” so với châu Âu, nước Pháp, chỉ ra sự thua kém để tác động vào tư tưởng tự cường dân tộc, từ đó mà phấn đấu để có sự hiểu biết, một ý thức nghĩa vụ giữa người với người. Muốn đất Việt Nam thoát khỏi tình trạng hèn yếu, mất độc lập, dứt khoát phải cải tổ luân lí đổ nát, xây dựng luân lí mới trên nền tảng truyền thống vinh quang. Nhiệt tình yêu nước, tâm trạng phẫn nộ của tác giả bộc lộ cao độ khi chỉ ra vấn đề. Chúng chí biết “ham quyền tước, ham vui vinh hoa” mà sinh ra “lừa dối nịnh hót”, chúng chi biết “giữ túi tham, địa vị của mình”. Trong mắt của Phan Châu Trinh, chế độ vua quan chuyên chế vô cùng tồi tệ cần phủ định một cách triệt để. Theo tác giả, những “kẻ nịnh hót tai đội mũ”, “kẻ áo rộng đen” chỉ là “lũ ăn cướp có giấy phép vậy”.
Dũng khí của người diễn thuyết không chỉ ở việc chỉ mặt, vạch tên lũ quan lại cùng những thối nát của chúng. Nhiệt huyết của người nói còn ở thái độ công khai diễn thuyết ngay trong lòng thành phố Sài Gòn – thành phố thuộc địa, nơi đầy rẫy bọn quan lại xấu xa tàn ác. Ông đã bất chấp cả tính mạng của mình để “khai tâm dân trí” mà xây dựng nên luân lí cho dân tộc, đoàn kết để tạo nền độc lập.
Mục đích của bài diễn thuyết là kêu gọi mọi người gây dựng nên luân lí xã hội ở nước ta, một điều kiện thiết yếu để khôi phục ý thức về nghĩa vụ đối với quốc gia dân tộc nhằm mục đích giành lại độc lập tự do. Sức thuyết phục của bài diễn thuyết là ở nhiệt huyết, ở lập luận chặt chẽ, cách diễn đạt để hiểu cùng với giọng điệu chân thành nhiều khi thống thiết. Người diễn thuyết đã hướng tới đồng bào thân yêu của mình bằng những cụm từ “người nước nam”, thương mình”, “anh em”, “chín Việt Nam”, đặc biệt là sự xuất hiện của những câu cảm thán: “Thương dân”, “Ôi/Một dân tộc như thế…”. cho thấy tác giả không chỉ phát biểu chính kiến bằng lí trí tỉnh táo mà còn bằng trái tim tràn trề cảm xúc, chan chứa niềm xót xa cùng nỗi đau về tình trạng đình trệ thê thảm của xã hội Việt Nam. Qua trạng thái cảm xúc ấy, ta nhận rõ phẩm chất trung thực, cứng cỏi, quyết liệt của một nhà cách mạng toàn tâm toàn ý đấu tranh vì dân chủ, vì tiến bộ xã hội.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận là một điểm nổi bật của văn diễn thuyết. Những câu cảm thán, câu hỏi tu từ, một số trường hợp mở rộng thành phần câu để nhấn mạnh nhưng ở câu “luân lí của bọn thượng lưu tôi không gọi bọn ấy là thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho anh em dễ hiểu mà thôi ở nước ta là thế đấy!”) đầy ắp màu sắc cảm xúc đã làm cho lí luận diễn thuyết tăng thêm sức thuyết phục. Ta luôn thấy ở đây mối giao hòa, giao cảm giữa người nói và người nghe. Đó chính là một trong những điều kiện quan trọng làm nên khả năng lay chuyển nhận thức và tình cảm ở người đọc, người nghe.
Bài diễn thuyết của Phan Châu Trinh có lập luận chặt chẽ, lập trướng đánh đổ chế độ quân chủ luôn được tuyên bố công khai, dứt khoát; kế hoạch hành động được vạch ra cụ thể, rõ ràng,… Từ chỗ nhận thức một sự thực nhức nhối là dân trí nước ta quá thấp, ý thức đoàn thể quá kém, ông kêu gọi gây đựng đoàn thể là đi kèm với họ là đánh đổ chế độ vua quan thổi nát. Nhưng muốn kéo đoàn thể phải truyền bá “chủ nghĩa xã hội trong dân Việt Nam”. Phan Châu Trinh đã thể hiện đưọc tầm nhìn xa rộng. Ông nhìn thấy, mối quan hệ mật thiết giữa truyền bá chủ nghĩa vã hội, gây dựng đoàn thể với sự nghiệp giành tự do, độc lập. Vấn đề mà Phan Châu Trinh đặt ra không chỉ có ý nghĩa thời sự mà còn có ý nghĩa đối với thời đại của chúng ta hôm nay.
4. Phân tích đoạn trích Về lí luận xã hội ở nước ta – Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872-1926) là nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng. Lợi dụng thực dân Pháp, cải cách đổi mới mọi mặt, làm cho dân giàu, nước mạnh, trên cơ sở đó tạo nền độc lập quốc gia, đây chính là chủ trương cứu nước của ông. Phan Châu Trinh luôn ý thức dùng văn chương để làm cách mạng vì vậy những tác phẩm của ông đều đậm tính chất hùng biện, lập luận chặt chẽ, đanh thép, thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thật dân chủ. Một trong những tác phẩm chính của Phan Châu Trinh là “Đạo đức và luân lý Đông Tây” và bài “Về luân lý xã hội ở nước ta” là một đoạn trích nằm trong phần ba của tác phẩm này.
Nổi bật lên trong đoạn trích là dũng khí của một người yêu nước, qua đó vạch trần thực trạng đen tối của xã hội đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước. Với nội dung đoạn trích này, tác giả muốn hướng tới toàn thể nhân dân Việt Nam nhằm khôi phục ý thức, trách nhiệm của mỗi người dân đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc.
Trong tác phẩm, Phan Châu Trinh nói về luân lí xã hội. Vậy cái luân lí xã hội mà tác giả nhắc đến là cái gì? Luân lí xã hội tức là luân lí của chủ nghĩa xã hội, coi trọng sự bình đẳng của con người, không chỉ quan tâm đến từng gia đình, quốc gia mà còn đến cả thế giới. Cũng theo Phan Châu Trinh thì trong xã hội Việt Nam đương thời, cả luân lí về gia đình – tức là gia đình nào biết gia đình nấy, và luân lí quốc gia – tức là quốc gia nào thì lo củng cố, phát triển quốc gia nấy, mà phần cốt lõi của luân lí quốc gia là ý thức nghĩa vụ đối với quốc gia, cả hai luân lí này đều đã tiêu vong, ông cho rằng đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất nước.
Riêng về luân lí xã hội là thứ luân lí đang được cổ vũ ở các nước phương Tây thì người dân ta chưa có ý niệm gì. Phan Châu Trinh chỉ rõ: Ở Việt Nam chưa có luân lí xã hội , ông viết: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội luân lí được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì”. Ý của tác giả là không thể hiểu đơn giản rằng luân lí xã hội chẳng qua chỉ là tình cảm bạn bè giữa người này với người khác. Tiếp đến, tác giả so sánh quan điểm, nhận thức về luân lí xã hội của người châu Âu với người Việt Nam để nhấn mạnh tình trạng trên.
Ông cho rằng người châu Âu có đoàn thể, có ý thức sẵn sàng làm việc chung, sẵn sàng giúp đỡ lẫn nhau và tôn trọng quyền lợi của người khác bằng minh chứng: “bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay một hội nào thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng cho đến được công bình mới nghe”. Còn ở Việt Nam thì sao? Tác giả đã chứng minh được ở nước ta tuyệt nhiên không có luân lí xã hội. Thứ nhất, dân ta chỉ biết lo cho bản thân, không quan tâm đến người khác, ông chứng minh bằng cách đưa ra các biểu hiện: “Người mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình”.
Tiếp đến, tác giả viết: ” đã biết sống thì phải bênh vực nhau, biết góp gió thành bão, giặm cây làm rừng không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như ngày nay” và còn dùng một số câu thành ngữ như “không ai bẻ đũa cả nắm” hay “Nhiều tay làm nên bộp” để chỉ rõ trước kia dân tộc Việt Nam cũng biết đến đoàn thể, công ích, biết đến sức mạnh của tình đoàn kết nhưng hiện nay thì không còn nữa. Ông còn nhấn mạnh sự phản động, thối nát của xã hội phong kiến chính là nguyên nhân gây ra tình trạng này. Không dừng lại ở đó, tác giả còn nêu ra tình trạng vua quan ra sức bóc lột, vơ vét của nhân dân, không hề quan tâm đến lợi ích của dân chúng: “Dẫu trôi nổi cùng cực thế nào, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong”, ông còn chỉ rõ bọn quan tham ấy là ai? “Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ.
Ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức kí lục thông ngôn, có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy”. Bên cạnh sự phê phán bọn quan tham, tác giả cũng chỉ ra sự hèn kém của dân mình, “dầu thấm, dầu nhũng dầu rút tỉa của dân thế nào cũng không ai bình phẩm; dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai”. Cuối cùng là thái độ gió chiều nào theo chiều ấy, thấy quyền thế thì chạy theo, quỵ lụy, dựa dẫm: “Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược, chạy xuôi dầu cố ruộng dầu bán trâu cũng vui lòng chỉ cần được lấy một cái chức xã trưởng hoặc cai tổng […]. Thương ôi! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có chút gì gọi là luân lí đạo đức cả”.
Vậy nếu muốn có luân lí xã hội thì cần phải làm gì? Theo tác giả thì cần phải gây dựng đoàn thể để giúp đỡ nhau trong cuộc sống. Đồng thời xóa bỏ chế độ phong kiến đã thối nát để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa theo đúng nghĩa của nó, nâng cao dân trí và ý thức dân chủ của người dân, hướng dân chúng tới mục tiêu giành độc lập tự do cho dân tộc, như ông đã kết luận: “Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do, độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chi hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này”.
Với phong cách chính luận độc đáo: lúc từ tốn, mềm mỏng, lúc lại kiên quyết đanh thép đầy sức thuyết phục, đồng thời với tầm nhìn sâu rộng và suy nghĩ sắc sảo tiến bộ của mình, Phan Châu Trinh đã cho chúng ta thấy thực trạng về luân lí xã hội ở nước ta hiện nay, đồng thời như một lời nhắc nhở mọi người hãy nêu cao tinh thần đoàn kết và ý thức trách nhiệm với quốc gia, dân tộc mình.