Với mỗi người dân Việt Nam trên khắp thế giới, Tết cổ truyền luôn có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng. Đó là dịp để mọi thành viên trong gia đình sum vầy, gạt hết mọi lo toan, bận rộn, cùng nhau quây quần bên mâm cơm ngày Tết. Và trên mâm cơm đoàn viên ấy, chắc chắn không thể thiếu những món bánh truyền thống tự bao đời.
Tại mỗi vùng miền của đất nước lại có một loại bánh đặc trưng khác nhau, không chỉ đẹp, ngon mà còn có nhiều ý nghĩa.
Bánh chưng
Bánh chưng có lịch sử lâu đời và vị trí đặc biệt trong tâm thức của người Việt. Bánh chưng không đơn thuần là một món ăn, mà là nguồn cội, là văn hóa, là sự tổng hòa của trời, đất với những tinh túy mà thiên nhiên ban tặng người Việt. Có lẽ vì thế mà người ta nhớ bánh chưng như nhớ Tết và nhớ Tết là nhớ về món bánh của Tổ tiên.
Bánh chưng tượng trưng cho quan niệm của người Việt xưa về vũ trụ và hội tụ những tinh hoa của đất Việt trong một món ăn giản dị, thân thuộc. Theo sự tích bánh chưng bánh dày, bánh chưng có hình vuông, được gói bằng lá dong màu xanh, tượng trưng cho đất đai luôn xanh tươi màu mỡ với nền văn hóa lúa nước lâu đời của dân tộc Việt Nam. Bên trong bánh là gạo nếp dẻo thơm, nhân đỗ xanh cùng thịt ba chỉ tẩm ướp gia vị, hạt tiêu vừa miệng, béo ngậy.
Bánh chưng sau khi gói, mang đi luộc từ 10-12 tiếng đồng hồ, vớt ra nghi ngút khói, để nguội trong tiết trời lành lạnh giao mùa, ngấm hương vị đất trời và hòa chung với không khí đầm ấm, hạnh phúc bên nồi bánh của các thế hệ gia đình miền bắc trong những ngày cuối năm.
Suốt mấy ngày Tết, trên mâm cơm cúng gia tiên cũng như bàn tiệc năm mới của người miền Bắc không thể thiếu hình ảnh những chiếc bánh chưng xanh thịt mỡ dưa hành. Trên mâm cỗ, nhìn thấy bánh chưng, mỗi người đều bồi hồi như thấy lại những vất vả của cha ông làm nên hạt lúa hạt gạo, thấy niềm hân hoan của ngày Tết sum họp, đoàn tụ và thấm thía cái tinh túy giản dị của hồn Việt mỗi độ Tết đến, Xuân về.
Bánh phu thê
Bánh phu thê cũng là một loại bánh đặc trưng ngày Tết của người miền Bắc, nhất là mảnh đất Bắc Ninh-Kinh Bắc, quê hương của những chiếc bánh ngọt bùi vàng ruộm này. Cứ mỗi độ Tết đến Xuân về, người dân lại cùng nhau chuẩn bị những cặp bánh thơm ngon với mong ước cuộc sống hạnh phúc, ấm no.
Tương truyền, những chiếc bánh phu thê đầu tiên được làm cách đây khoảng 1.000 năm, tại phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Người dân phường Đình Bảng truyền lại, bánh phu thê (hay còn gọi bánh xu xê) có nguồn gốc từ thời Lý, khi vua Lý Anh Tông đi đánh trận, hoàng hậu ở nhà thương nhớ chồng làm bánh gửi ra chiến trường. Nhà vua ăn bánh thấy ngon ngọt, trân trọng tình nghĩa vợ chồng nên đặt tên là bánh phu thê.
Nhưng cũng có tích truyền lại rằng, trong 1 dịp vua Lý Thánh Tông cùng hoàng hậu đến thăm lễ hội Đền Đô, người dân Đình Bảng háo hức tìm sản vật quê hương dâng vua. Đôi vợ chồng trẻ trong làng làm bánh dâng vua, nhà vua thưởng thức thấy ngon miệng, bèn đặt tên là bánh phu thê, hay còn gọi “bánh vợ, bánh chồng.” Từ đó, bánh phu thê mang ý nghĩa tượng trưng cho sự thủy chung, hạnh phúc lứa đôi nên thường được dùng trong các đám cưới hỏi, lễ Tết.
Để làm được một chiếc bánh phu thê ngon thì tất cả các khâu phải chọn lọc cẩn thận từ gạo nếp, đậu xanh, lá chuối, lá dong, quả dành dành. Vỏ bánh được làm từ bằng gạo nếp cái hoa vàng, xay thành bột trộn lẫn với đường trắng, đu đủ xanh nạo thành sợi, tinh dầu chuối, vani cùng nước quả dành dành và nhào kỹ. Màu vàng ươm của vỏ bánh chính là màu nước của quả dành dành. Nhân bánh được làm bằng đậu xanh đãi sạch vỏ, đồ chín, giã nhuyễn trộn với đường trắng, nước cốt dừa và dừa nạo.
Lá dong và lá chuối rửa sạch lá phải để ráo nước, sau đó tước bớt cọng để khi gói bánh được mềm mại. Lá lót trong phải là lá chuối tây dẻo luộc chín hong khô. Khi gói, người làm bánh còn quết lên lá một lớp mỡ để khi bóc bánh không bị dính và có độ ngậy đặc trưng. Sau khi gói xong, bánh được đem luộc và vớt ra buộc lại từng cặp bằng 1 chiếc lạt hồng với ý nghĩa cầu mong cho tình cảm vợ chồng mãi thắm thiết, bền chặt.
Mỗi dịp Tết đến Xuân về, người dân Đình Bảng lại tất bật làm bánh chuẩn bị cho gia đình, cũng như gửi đến cho thực khách khắp các tỉnh, thành phố trên cả nước. Hương thơm, độ dẻo sệt của bánh được tỏa ra từ gạo nếp cái hoa vàng, độ dai của đu đủ, cộng với độ béo bùi của đậu xanh, dừa, vị ngọt của đường, tạo nên hương vị rất đặc trưng, kết hợp với màu vàng ruộm của vỏ bánh, tất cả hòa quyện với nhau mang đến không khí Xuân ngập tràn trên ban thờ gia tiên, mâm cơm đoàn viên ngày Tết của mỗi gia đình.
Bánh đậu xanh
Đây là loại bánh nổi tiếng của Hải Dương. Bánh được làm từ đậu xanh, có vị bùi, ngọt và thơm. Vào ngày Tết, bánh đậu xanh được đựng trong những chiếc hộp có hình thỏi vàng, in hình rồng bay. Nhiều người thường mua bánh đậu xanh đi tặng, biếu để gửi đến gia chủ lời chúc tài lộc vào Năm mới.
Bánh in
Nếu miền Bắc có bánh chưng ngày Tết, thì người miền Trung, nhất là ở Huế, sẽ ăn bánh in. Bánh in là bánh địa phương, xưa vốn được làm dành riêng cho vua chúa và giờ đây là loại bánh cổ truyền không thể thiếu.
Nguyên liệu của bánh gồm có bột nếp, bột năng, đường và đậu xanh. Xưa kia, đây là món bánh được làm dành riêng cho vua chúa, ngày nay bánh in là món bánh truyền thống không thể thiếu trong ngày Tết của các gia đình ở Huế. Bánh được in nhiều hình như rồng phượng, các loại chữ phúc, tài, lộc, thọ… như một lời chúc năm mới phúc lộc, cát tường tới mọi người.
Bánh ít lá gai
Cũng như người miền Nam ăn bánh ít 3 ngày Tết, người miền Trung cũng ăn bánh ít, nhưng là bánh ít lá gai, đặc sản của Bình Định.
Theo dân gian, bánh này xuất hiện từ thời vua Hùng, được người con gái út của Vua sáng tạo ra từ bánh chưng, bánh dày. Bánh có dạng hình khối, có vị thơm ngon, dẻo bùi nên ai đã từng nếm qua đều khó lòng mà quên được.
Bánh ít lá gai là đặc sản của Bình Định có dạng hình khối, có vị thơm ngon, dẻo bùi. Theo dân gian, bánh này xuất hiện từ thời vua Hùng.
Bánh Tổ
Ẩm thực miền Trung vô cùng phong phú và đa dạng, mỗi món ăn lại mang những nét đặc trưng riêng. Đặc sản miền Trung từ những món ăn vặt, đến món ăn truyền thống ngày Tết hay món tráng miệng đều có sự quyến rũ, tinh tế trong cách chế biến khiến thực khách khó lòng bỏ qua.
Mỗi khi nhắc đến món ngon xứ Quảng, người ta nghĩ ngay đến mì Quảng, bê thui cầu Mống, cơm gà Tam Kỳ, cao lầu Hội An… Còn trong dân gian lại truyền nhau nhiều câu vè về những món đặc sản: “Nem chả Hòa Vang, bánh tổ Hội An…”. Đó là những món ăn truyền thống lâu đời trong mỗi dịp Tết đến của người dân xứ Quảng. Tuy nhiên, một món bánh ngon, hấp dẫn không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên trong ngày Tết đó là bánh tổ.
Trên bàn thờ đêm 30 Tết, không phải món nào cũng được dâng lên. Với món mặn, người dân chỉ chọn bát mì Quảng hoặc đĩa xôi, còn bánh thì bánh tổ không thể thiếu được.
Bánh tổ thường chỉ có vào dịp Tết, ngày thường sẽ khó tìm hơn. Bánh tổ có màu nâu sẫm như màu đất, đổ trong khuôn dày, hình vuông hoặc tròn, chính là biểu tượng “trời tròn đất vuông” trong nếp nghĩ của người dân.
Công đoạn chế biến món bánh tổ không đơn giản, vì phải bảo đảm bánh đạt độ dẻo, dai và vị ngọt thanh. Vì thế, bột nếp phải được chọn loại xay mịn từ loại nếp bầu nổi danh xứ Quảng, thêm đường bát, gừng giã nhuyễn lấy nước cốt. Bột nếp và đường được nhào kỹ, thêm vào chút nước gừng cho thơm. Tất cả được trộn vào với nhau.
Lá chuối hoặc lá dong khô đem lau sạch, lót chung quanh khuôn nan tre trước đó đã được đan thành rọ, có hình vuông hoặc tròn, đường kính từ 10 đến 15cm. Trộn hỗn hợp bột đường đến độ sền sệt mới đem đổ vào khuôn, rồi đem hấp cách thủy.
Bánh sau khi hấp chín được vớt ra. Lúc này mè mới được rắc đều lên mặt bánh, để chừng 3-4 phút cho bánh nguội rồi đem bảo quản nơi thoáng mát. Ai kỹ tính hơn còn mang bánh ra phơi nắng cho đến khi bánh se lại. Tuy vậy, bánh tổ ngon là bánh không cứng quá hay nhão quá, khi cắt ra bột không dính vào dao. Bánh tổ Quảng Nam có thể giữ được lâu ngày mà không sợ ẩm mốc. Thậm chí càng để lâu, bánh càng dẻo càng dai, hương vị càng đậm đà. Điều này cũng cần phụ thuộc vào bí quyết riêng của người làm bánh tổ.
Ngày nay, trên thị trường tràn ngập nhiều loại bánh với mẫu mã đẹp và chất lượng, nhưng bánh tổ vẫn giữ vị trí rất quan trọng với người dân xứ Quảng. Bánh tổ không chỉ là món ăn ngon mà còn mang một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp. Nhớ đến món bánh tổ cũng chính là nhớ về nguồn cội làng quê.
Bánh tét
Nếu bánh chưng có nguồn gốc từ đời vua Hùng thứ 16 theo “Sự tích bánh chưng bánh dày,” thì bánh tét của người miền Nam lại gợi nhớ về vị vua tài ba Quang Trung. Ban đầu, món bánh này được vua cho gói vào dịp Tết và đặt tên là bánh tết. Tuy nhiên, qua bao năm, được đọc lái thành bánh tét như ngày nay.
Nguyên liệu chủ yếu làm nên một chiếc bánh tét cũng giống như bánh chưng của miền Bắc, đó là gạo nếp, đỗ xanh, thịt ba chỉ. Song, bánh tét có 2 điểm khác biệt so với bánh chưng, đó là được gói bằng lá chuối và có hình dáng tròn dài.
Để có được chiếc bánh tét thơm ngon, cần thực hiện thật tỉ mỉ, nắn nót từ những khâu chuẩn bị nguyên liệu như gạo nếp phải là loại mới, thơm, ngon; đỗ xanh đã đãi vỏ, đem nấu chín; dừa khô nạo lấy nước cốt dừa; lá dứa xay, lọc lấy nước trộn vào gạo cho ngấm để tạo màu xanh mát; thịt ba chỉ thái theo độ dài của bánh, ướp gia vị để làm nhân.
Luộc bánh tét cũng tương tự như luộc bánh chưng từ cách xếp bánh vào nồi, thời gian luộc tới việc ngồi canh lửa liên tục để bánh chín đều, không bị sống hay nhão.
Thời điểm luộc bánh luôn là khoảng thời gian được mong chờ nhất, cả gia đình cùng quây quần bên nhau, những đứa trẻ cũng háo hức thức canh nồi bánh, trò chuyện cùng ông bà, cha mẹ với vô vàn những câu hỏi về Tết cổ truyền. Cứ thế, tình yêu thương hòa cùng hơi ấm của bếp lửa lan tỏa từng căn bếp, nếp nhà. Năm này qua năm khác, những đứa trẻ Việt lớn lên như thế.
Bánh Tét sau khi luộc xong, để nguội, cắt thành từng khoanh tròn đẹp mắt dâng lên cúng tổ tiên và cũng là món ăn không thể trong mâm cơm mừng năm mới của người Nam Bộ./.
Nguồn: https://baodaknong.vn/nhung-mon-banh-truyen-thong-doc-dao-trong-dip-tet-co-truyen-cua-ba-mien-241542.html