Quỹ VinaCapital kỳ vọng lợi nhuận ngành ngân hàng niêm yết sẽ tăng trưởng 17% trong năm 2025, nhờ vào tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống 15% và NIM tăng nhẹ 0,06 điểm % so với năm ngoái lên 3,55 điểm %.
Triển vọng tích cực của ngành Ngân hàng năm 2025
Báo cáo triển vọng tích cực của ngành ngân hàng năm 2025, quỹ VinaCapital kỳ vọng lợi nhuận ngành ngân hàng niêm yết sẽ tăng trưởng 17% trong năm 2025, nhờ vào tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống 15% và NIM tăng nhẹ 0,06 điểm % so với năm ngoái lên 3,55 điểm %.
Các chuyên gia dự phóng tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống sẽ duy trì ở mức khoảng 15% trong năm 2025, trong đó tăng trưởng cho vay phân khúc khách hàng cá nhân dự kiến sẽ tăng tốc từ khoảng 12% năm ngoái lên 15% năm nay.
Ngoài ra, các ngân hàng cũng sẽ đẩy mạnh cho vay dài hạn, đặc biệt là các dự án hạ tầng, nhằm tối ưu hóa biên lãi thuần (NIM), vì cho vay dài hạn thường mang lại lãi suất cao hơn so với huy động ngắn hạn. Tuy nhiên, một số ngân hàng sẽ cần huy động vốn dài hạn để cân đối, làm tăng chi phí huy động.
Chuyên gia VinaCaptial nhận định cho vay kinh doanh bất động sản dự kiến sẽ tiếp tục dẫn dắt nhất là khi thị trường tiếp tục phục hồi, mặc dù một phần tăng trưởng này cũng chính là để tái tài trợ cho các khoản trái phiếu đến hạn.
Trong khi đó, chất lượng tài sản của các ngân hàng được các chuyên gia nhận định đang cải thiện. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đã ổn định ở mức khoảng 2% kể từ sau sự cố tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn (SCB) vào cuối năm 2022, nhờ vào các biện pháp gia hạn nợ và thu hồi nợ xấu.
Tỷ lệ nợ nhóm 2 và tỷ lệ hình thành nợ xấu mới cũng đang giảm, cho thấy áp lực về chất lượng tài sản đang thuyên giảm. Thu nhập ngoài lãi ( chiếm khoảng 20% tổng thu nhập hoạt động của ngân hàng) đặc biệt là từ việc thu hồi nợ xấu và các hoạt động bancassurance, dự kiến sẽ tăng trưởng trên 10% trong năm 2025.
Tuy nhiên, chi phí tín dụng (tính theo tỷ lệ dự phòng/tổng dư nợ) chỉ giảm nhẹ từ 1,3% năm ngoái xuống còn 1,2% trong năm nay. Điều này do các ngân hàng đã trích lập nhiều dự phòng trong những năm trước, và hiện nay cần bắt đầu bù đắp lại tỷ lệ dự phòng nợ xấu (LLR), vốn đã giảm từ hơn 150% xuống còn khoảng 100%.
Ngoài ra, mặc dù các ngân hàng sẽ không phải tiếp tục cấp tín dụng với lãi suất thấp như năm ngoái, khi nhu cầu tín dụng phục hồi, NIM có thể được cải thiện nhẹ. Tuy nhiên, tăng trưởng tín dụng tính đến cuối năm 2024 đã vượt quá mức tăng trưởng tiền gửi, gây áp lực lên lãi suất tiền gửi.
Tình trạng thanh khoản trong hệ thống ngân hàng hiện nay được mô tả là “thắt chặt nhưng không đến mức căng thẳng”, với lãi suất huy động kỳ hạn 6 tháng đã tăng từ mức đáy 3,5% vào tháng 3/2024 lên trên 4% vào cuối năm 2024. VinaCapital dự báo lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng sẽ tăng 0,5-0,7 điểm % trong năm 2025, đạt gần 5%, điều này sẽ làm tăng chi phí huy động và ảnh hưởng đến NIM.
Nhìn chung, các chuyên gia tin rằng ngành ngân hàng sẽ tiếp tục có sự cải thiện về tăng trưởng tín dụng và chất lượng tài sản trong năm 2025. Tuy nhiên, NIM sẽ chỉ có thể tăng nhẹ do áp lực từ chi phí huy động cao hơn và nhu cầu tín dụng phục hồi.
“Chất lượng tài sản sẽ cải thiện nhờ vào việc giảm tỷ lệ nợ xấu và tăng thu nhập từ xử lý nợ, nhưng chi phí tín dụng có thể không giảm mạnh trong năm nay do cần bổ sung dự phòng nợ xấu.”, báo cáo cho hay.
Lựa chọn những ngân hàng tiềm năng
Theo đánh giá của VinaCapital, cổ phiếu các ngân hàng ở Việt Nam hiện đang giao dịch ở mức P/B 1,3 lần với dự phóng cho năm 2025, cùng tỷ lệ ROE dự phóng ở mức 16%. Mức P/B này đang thấp hơn gần 2 độ lệch chuẩn so với mức P/B trung bình quá khứ 5 năm của ngành Ngân hàng (trong khi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, những ngân hàng có ROE 16% có thể được giao dịch với mức P/B trên 2 lần).
Định giá cũng khá thấp khi xét theo hệ số giá trên thu nhập (P/E) so với tăng trưởng lợi nhuận (G) khi tỷ lệ PEG (tỷ lệ giá/thu nhập) chỉ ở mức 0,5 lần (P/E dự phóng là 8 lần so với tăng trưởng EPS dự phóng 17% cho năm 2025). Mức định giá này thực ra đã có cải thiện một chút so với thời điểm đầu năm ngoái, khi mức tăng giá cổ phiếu ngân hàng của năm 2024 là 26%, cao hơn so với mức tăng trưởng thu nhập bình quân trên cổ phiếu (EPS) 14%.
Một nguyên nhân nữa cũng khiến định giá ngân hàng ở mức rẻ là do giới hạn tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (FOL) đối với ngân hàng chỉ là 30%, khiến các nhà đầu tư cá nhân trong nước trở thành người có vai trò chủ đạo trong việc quyết định giá cổ phiếu ngân hàng, trong khi phần đông các nhà đầu tư cá nhân không quá chú trọng vào việc xem xét định giá như các nhà đầu tư nước ngoài.
“Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung đều biết rằng, mức định giá hiện tại của ngành Ngân hàng là khá thấp, nhưng có thể nhiều người chưa thực sự nhận ra sự phân hóa lớn giữa định giá và xu hướng giá cổ phiếu hoặc sự khác biệt trong định hướng hoạt động, chất lượng tài sản và các chỉ số khác giữa các ngân hàng”, VinaCapital nhận định và cho biết thêm: “Tất cả những yếu tố này đều được nghiên cứu kỹ lưỡng khi chúng tôi lựa chọn cổ phiếu ngân hàng cho danh mục đa dạng của mình”.
Việc lựa chọn cổ phiếu này cũng được định hướng dựa trên kỳ vọng của VinaCapital về triển vọng kinh tế trong nước năm nay – rằng tăng trưởng của các yếu tố nội tại sẽ có lợi cho hầu hết các ngân hàng đặc biệt là những ngân hàng cho vay lĩnh vực bất động sản và cho vay tiêu dùng cao, cũng như những ngân hàng cho vay các dự án hạ tầng (như là ngân hàng quốc doanh).
Trên cơ sở đó, VinaCapital nhóm các ngân hàng thành 2 nhóm: (i) nhóm ngân hàng có chất lượng tài sản tốt và có danh mục cho vay đa dạng/ít phụ thuộc vào lĩnh vực bất động sản; (ii) nhóm ngân hàng có tỷ trọng cho vay lĩnh vực bất động sản cao và/hoặc tập trung mạnh hơn vào cho vay tiêu dùng. Sau đó, VinaCapital sẽ cân nhắc kỹ lưỡng về định giá để đưa ra lựa chọn cổ phiếu, xem xét đến chênh lệch về định giá giữa các ngân hàng, như được thể hiện trong biểu đồ dưới đây.
Nhóm đầu tiên bao gồm các ngân hàng như ACB, VCB, CTG, BID và STB, đây đều là những ngân hàng có khả năng tận dụng được đà tăng trưởng chung của toàn ngành năm nay. Những ngân hàng này cũng có khả năng mở rộng thêm dư nợ cho vay trong lĩnh vực bất động sản (bao gồm cho vay mua nhà) vì họ không bị giữ chân bởi những dự án còn đang vướng mắc về pháp lý và/hoặc không cần phải hỗ trợ các khách hàng đang gặp khó khăn do các vấn đề tồn đọng từ trước. Đây cũng là những ngân hàng hưởng lợi nhiều nhất từ thu từ nợ đã xử lý do chính sách cho vay thận trọng trước đó đồng nghĩa với việc họ có nhiều tài sản thế chấp có thể sớm thu hồi hơn nhất là khi thị trường bất động sản hồi phục.
Nhóm thứ hai bao gồm những ngân hàng mạnh dạn hơn như TCB, VPB, MBB và HDB, là những ngân hàng có thể trực tiếp hưởng lợi từ việc đẩy mạnh cho vay (hoặc giảm hỗ trợ lãi suất) đối với các công ty bất động sản hoặc sẽ giải quyết được một số vấn đề về chất lượng tài sản còn tồn đọng trước đó nhờ việc được tháo gỡ các vướng mắc pháp lý cũng như khi giao dịch bất động sản sôi động trở lại. Ví dụ, giá cổ phiếu của những ngân hàng có tỷ lệ dự phòng bao nợ xấu thấp dưới 100% hoặc những ngân hàng mà thị trường cho rằng có thể chưa báo cáo đầy đủ nợ xấu thực sẽ có tiềm năng tăng giá tốt khi thị trường bất động sản phục hồi.
VinaCapital cho biết, danh mục đầu tư của các quỹ đầu tư chủ động của VinaCapital bao gồm cả những ngân hàng nhạy hơn khi hưởng lợi từ triển vọng kinh tế năm nay, cùng với một số ngân hàng thận trọng hơn và không bị vướng vào các vấn đề tồn đọng trong thời gian qua. “Chúng tôi coi đây là một chiến lược đầu tư linh hoạt, bao trùm hai thái cực và cũng kết hợp các yếu tố đặc thù của từng ngân hàng vào quyết định đầu tư, như lựa chọn các ngân hàng đã hoàn thành (hoặc sắp hoàn thành) quá trình tái cơ cấu, các ngân hàng có kế hoạch số hóa mạnh mẽ, và/hoặc các ngân hàng có kế hoạch tăng vốn để tạo nền tảng vững chắc hơn cho tăng trưởng trong tương lai”, các chuyên gia của VinaCapital chia sẻ.
Với cổ phiếu ngân hàng đã tăng giá vượt trội so với VN-Index trong năm 2024, VinaCapital kỳ vọng giá cổ phiếu ngành Ngân hàng năm 2025 sẽ tiếp tục tăng tốt, nhờ lợi nhuận tăng trưởng mạnh hơn và mức định giá thấp (1,3x P/B so với 16% ROE). Dù vậy, diễn biến giá cổ phiếu của từng ngân hàng riêng lẻ dự kiến sẽ có sự phân hóa rõ rệt do những khác biệt lớn về định giá, chất lượng tài sản và tăng trưởng lợi nhuận.
Nguồn: https://baodaknong.vn/dong-luc-nao-giup-loi-nhuan-nganh-ngan-hang-tang-17-trong-nam-2025-240044.html