I. Tìm hiểu chung về tác phẩm Thơ duyên của Xuân Diệu
1. Tác giả Xuân Diệu
a. Tiểu sử
– Xuân Diệu tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu (2/21916 – 18/2/1985), là một trong những nhà văn, nhà thơ lớn của Việt Nam.
– Ông nổi tiếng từ phong trào thơ mới với tập Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Những bài được yêu thích nhất của Xuân Diệu là thơ tình làm trong khoảng 1936 – 1944, thể hiện một triết lý bi quan, tuyệt vọng về tình ái nhưng lại có một mạch ngầm thúc giục, nhiều khi hừng hực sức sống. Nhờ đó, ông được mệnh danh là “ông hoàng thơ tình”. Ông từng được Hoài Thanh và Hoài Chân đưa vào cuốn Thi nhân Việt Nam (1942).
– Sau khi theo Đảng, thơ ông chủ yếu ca ngợi Đảng Lao động Việt Nam, ông không còn sáng tác thơ tình nhiều như trước.
– Ngoài làm thơ, Xuân Diệu còn là một nhà văn, nhà báo, nhà bình luận văn học.
– Năm 1940, ông thi đỗ Tham tá thương chính và vào làm việc tại Mĩ Tho, một thời gian sau ông xin thôi việc ra Hà Nội kết bạn thơ với Huy Cận.
– Xuân Diệu tham gia cách mạng từ năm 1944. Sau cách mạng tháng Tám, ông là Uỷ viên BCH Hội văn hóa cứu quốc, thư kí tòa soạn tạp chí Tiên phong. Ông là đại biểu Quốc hội khóa I; năm 1948 là Uûy viên BCH Hội văn nghệ Việt Nam.
– Từ 1957 cho đến khi qua đời, Xuân Diệu luôn được bầu vào BCH Hội nhà văn Việt Nam. Ông được kết nạp vào Ðảng năm 1949. Năm 1983, ông được công nhận là Viện sĩ thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật nước Cộng hòa dân chủ Ðức. Năm 1985, Xuân Diệu lâm trọng bệnh và qua đời.
b. Sự nghiệp văn học
* Xuân Diệu để lại hơn 40 tác phẩm ở các thể loại sau:
– 13 tập thơ
– Tập truyện ngắn Phấn thông vàng
– Nhiều bút kí và tiểu luận, phê bình
– Giới thiệu và dịch thơ của Targo, Mai-a-cốp-xki, Ðimitrôva,
* Phong cách nghệ thuật
– Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và sống hết mình cho cuộc sống. Xuân Diệu luôn có mặt trong cuộc sống, ông đặt tên cho một tập thơ của mình là Tôi giàu đôi mắt. Ông hăm hở, say mê sáng tạo với trách nhiệm của một công dân trước cuộc sống.
– Thơ ông bám lấy thực tại của cuộc sống, đưa sự vật, hiện tượng vào thơ, muốn mở rộng cánh cửa thơ cho cuộc sống tràn vào, do vậy trong thơ ông có sự bề bộn của những chi tiết hiện thực cuộc sống. Ông muốn thơ phải có sức chứa lớn và sức phản ảnh rộng lớn phong phú.
– Xuân Diệu là nhà thơ giàu sức sáng tạo, luôn có ý thức tìm tòi, thể nghiệm trên nhiều phương diện (cách xây dựng hình tượng, nhịp điệu, ngôn ngữ). Ðây cũng chính là một trong những nguyên nhân tạo nên thơ hay và thơ trung bình ở mỗi tập thơ của ông.
– Tâm hồn thơ Xuân Diệu luôn có sự tinh tế và nhạy cảm. Ðó là yếu tố bền vững trong thơ Xuân Diệu trước và sau cách mạng. Nói cách khác, sức thanh xuân luôn tràn đầy trong tâm hồn thơ Xuân Diệu. Tươi trẻ, hăng say như cái thuở ban đầu yêu và đang yêu là nét nổi bật trong thơ Xuân Diệu. Sự nhạy cảm của tâm hồn đã tạo cho thơ ông thêm giàu hương vị của cuộc đời, tác động mãnh liệt đối với nhận thức của người đọc.
– Thơ Xuân Diệu có khi còn nặng về kể, giải bày, ít ẩn ý, thiếu hàm súc, dễ dãi, dài dòng trong nhạc điệu, từ ngữ. Ðiều đó tạo nên sự hạn chế phần nào về sức truyền cảm và hấp dẫn của thơ ông đối với người đọc.
2. Tác phẩm Thơ duyên
a. Xuất xứ
Bài thơ được in trong Tuyển tập Xuân Diệu (Thơ), NXB Văn học, Hà Nội, 1986, 100 – 101)
b. Thể loại và phương thức biểu đạt
– Thể loại: Thơ 7 chữ
– Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
c. Bố cục:
– Phần 1 (Khổ 1,2): Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của chiều thu
– Phần 2 (Khổ 3): Duyên tình gặp gỡ giữa “anh” và “em”
– Phần 3 (Khổ 4): Bức tranh thiên nhiên chiều thu buồn, lạc lõng
– Phần 4 (Khổ cuối): Khát khao được giao hòa, gắn kết tuyệt đối giữa duyên “anh” và “em”.
d. Giá trị nội dung
– Bài thơ cho thấy khung cảnh mùa thu đẹp đẽ, thơ mộng, tinh khôi và tươi mới, đầy sức sống qua cái nhìn của những người trẻ đang tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu người
– Thể hiện được tình cảm, nỗi niềm yêu mến của những người trẻ dành cho nhau vừa chân thành, tha thiết nhưng cũng vừa ngại ngùng, xốn xang
– Cho thấy cảm xúc đôi lứa dành cho nhau từ khi gặp gỡ đến lúc rung động rồi đến khi nhận ra đã phải lòng nhau từ lúc nào gắn với thiên nhiên, cảnh sắc và thời gian, khung cảnh của trời thu, mùa thu
– Cho thấy những cảm xúc, rung động đầu đời là những tình cảm đẹp đẽ, tinh khôi, đáng nhớ, đáng trân trọng
e. Giá trị nghệ thuật
– Sử dụng từ láy, biện pháp đảo ngữ, ngôn từ thuần Việt dễ hiểu
– Cho thấy sự miêu tả tỉ mỉ, tinh tế và nhiều ẩn ý của tác giả
– Thể thơ bảy chữ phù hợp để bày tỏ tình cảm, tâm trạng
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình, nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ đi vào lòng người
g. Ý nghĩa nhan đề
– “Thơ” là hình thức sáng tác văn học phản ánh những cảm xúc chất chứa, dạt dào.
– “Duyên”: sự gặp gỡ, giao lưu, đồng điệu giữa hai tâm hồn tạo nên những tình cảm gắn bó, khăng khít.
=> Nhan đề “Thơ duyên” mang ý nghĩa là bài thơ ghi lại cảm xúc mãnh liệt, khao khát của tác giả trước mối tơ duyên.
II. Dàn ý chung phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu
A. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về bài Thơ duyên và tác giả Xuân Diệu
B. Thân bài
* Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của chiều thu
– Cảnh vật giao hòa, xoắn bện vào nhau:
+ Hình ảnh “nhánh duyên” gợi ra đường nét duyên dáng của cành cây, nhành lá.
+ “Cặp chim chuyền”: vừa miêu tả cảnh quan, vừa diễn tả thế giới tinh thần phong phú, gắn bó, thân mật.
+ Động từ “đổ” kết hợp với tính từ “xanh ngọc” và hình ảnh muôn lá đã cho thấy bầu trời nhuộm xanh cả không gian.
=> Thu tràn ngập khắp không gian, khiến mọi nơi dậy vang tiếng đàn.
=> Bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu giao hòa, vừa có màu sắc, hình khối, đường nét vừa có âm thanh.
– Cảnh sắc thiên nhiên làm nền để thúc đẩy mối duyên tình giữa “anh” và “em”:
+ “Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu/ Lả lả cành hoang nắng trở chiều” vừa phác họa đường nét mềm mại của cảnh vật vừa gợi nỗi xuyến xao của lòng người.
+ “Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn/ Lần đầu rung động nỗi thương yêu”: diễn tả tâm trạng của con người mà cụ thể là sự rung động lần đầu tiên của “anh” và “em”. Đây là sự rung động hồn nhiên, trong sáng.
* Duyên tình gặp gỡ giữa anh và em
– Thay đổi về cách xưng hô từ “ta”, “bạn” sang “anh”, “em” thể hiện sự phát triển trong tình cảm.
– Hai câu “Em bước điềm nhiên không vướng chân,/ Anh đi lững đững chẳng theo gần” khiến người đọc cảm thấy có một khoảng cách giữa “anh” với “em”.
=> Lí do khiến “anh” “chẳng theo gần” là do rụt rè, chưa dám tiến gần đến để làm quen.
– Hai câu sau lại diễn tả sự gắn bó, giao hòa qua biện pháp so sánh “Anh với em như một cặp vần”.
* Bức tranh thiên nhiên chiều thu buồn, lạc lõng
– “Mây biếc về đâu bay gấp gấp” vừa diễn tả sự gấp gáp, thúc giục vừa gợi ra sự vô định, lạc trôi của đàn cô trên đồng ruộng bao la.
– Câu thơ “Chim nghe trời rộng giang thêm cánh” sử dụng phép tương phản giữa một bên là cánh chim nhỏ bé với không gian bao la, rộng lớn của bầu trời.
=> Vì trời rộng nên chim phải cố gắng giang cánh bay đi cho kịp.
– “Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”: sự lạnh lẽo trong khung cảnh chiều thu.
=> Cảnh vật tách biệt, không còn sự gắn bó, giao hòa, liên kết mật thiết với nhau như khổ 1.
=> Thể hiện sự ám ảnh về mặt thời gian của tác giả Xuân Diệu. Mạch thơ chuyển từ vui vẻ, hạnh phúc sang lo sợ, cô đơn.
* Khát khai được giao hòa, gắn kết tuyệt đối giữa duyên “anh” và “em”
– “Bước thu êm”: sự cảm nhận đầy tinh tế, sâu sắc về cảnh thu và tình thu trong trạng thái tĩnh lặng nhưng vẫn đủ sức thu hút, lay động lòng người.
– “Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm”: không cần đến người làm mai mối thì “anh” và “em” vẫn tìm đến với nhau.
– Hai câu cuối: Vẻ đẹp của chiều thu khiến con người ta ngơ ngẩn, trở thành sợi dây kết nối gắn liền hai tâm hồn vào nhau. “Lòng anh thôi đã cưới lòng em” diễn tả sự gắn bó tuyệt đối.
C. Kết bài
– Khái quát lại nội dung của Thơ duyên.
– Nhận xét, nêu cảm nghĩ về bài thơ.
III. Viết đoạn văn ngắn phân tích bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu
1. So sánh bài thơ Thơ Duyên của Xuân Diệu với bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu.
Tìm hiểu về nhà thơ Xuân Diệu, đọc những tác phẩm của ông, có thể khẳng định rằng, trong các bài thơ viết về mùa thu, đây là bài thơ duy nhất không mang đậm chất nỗi ưu buồn. Duyên tình trong bài thơ tuy có sự chia li, xa cách, nhưng không mang cảm hứng buồn bã nhiều, mà trái lại, bởi đấy là duyên, nên khi gặp nhau, đã thấy được sự thân quen, tựa như gắn bó đã lâu. Nói cách khác, đó là sự an bài của tạo hóa. Hơn nữa, ở phần kết, Xuân Diệu sử dụng cụm “lòng anh thôi đã cưới lòng em” gợi sự nhí nhảnh nhưng cũng đầy lãng mạn. “Anh” nhận ra mình đã phải lòng “em” mất rồi. Thiên nhiên mùa thu hiện lên với những hình ảnh gần gũi, đỗi quen thuộc, nhưng qua cách chọn lọc hình ảnh, sử dụng câu từ, vần, nhịp mà hồn thơ trở nên tươi tắn, cuốn hút bạn đọc. Các sự vật khăng khít với nhau, khiến chủ thể trữ tình cũng như vậy. Khác với với bài “Thu điếu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến”, mùa thu tuy đẹp mà buồn man mác. Không gian được nhìn từ nhiều góc cạnh, cái tĩnh lặng đến bặt người trong cảnh lẫn tình.
IV. Danh sách đề thi phân tích tác phẩm Thơ duyên của Xuân Diệu
1. Phân tích bài Thơ duyên của thi sĩ Xuân Diệu.
Xuân Diệu đã viết về mùa xuân với tất cả sự say đắm, nồng nàn:
… “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần…
… Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi”…
Thi sĩ cũng đã đến với mùa thu trong bâng khuâng, man mác. Viết về mùa thu, Xuân Diệu có một lối nói riêng đầy thi vị, tứ thơ mới mẻ, cảm nhận tinh tế nhẹ nhàng cái hồn thu của đất trời, quê hương xứ sở. “Thơ duyên” là một bài thơ thu độc đáo nhận diện cảnh thu, tình thu qua tâm hồn thơ mộng của một chàng trai đa tình và tài hoa lãng mạn.
“Thơ duyên” – một thi đề rất thơ. Cái “duyên” được thi sĩ nói đến là sự tương giao nhiệm mầu của vũ trụ, thiên nhiên và con người, trước hết là những chàng trai, cô gái “hồn xanh như ngọc bích”.
Một buổi chiều thu tuyệt đẹp – “chiều mộng” – êm ái, nhẹ nhàng như ru, tạo vật như đang “hóa thơ trên nhánh duyên”. Nhành cây mềm mại đung đưa duyên dáng theo làn gió thu nhẹ giữa sương khói tà dương. “Con gió xinh thì thào trong lá biếc” (“Vội vàng”), cả một trời thu “nơi nơi động tiếng huyền”. Tiếng nhạc, tiếng đàn du dương, dịu ngọt như ru hồn người vào cõi mộng. Tiếng gió hoà điệu với tiếng chim ríu rít. Trên ngọn me “cặp chim” vừa chuyền cành vừa hót, biết bao âu yếm và yêu thương. Cây me cũng như cây sấu là hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội. Ta như được sống lại phố cũ yêu thương của đất Tràng An hơn nửa thế kỉ trước. Đã từng biết “khúc nhạc thơm”; “khúc nhạc hường”, giờ đây ta lại được thưởng thức “tiếng huyền” của buổi “chiều mộng”:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đồ trời xanh ngọc qua muôn lá
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền”.
Cảnh thu có gió reo, chim hót. Còn có trời thu xanh trong, đẹp như ngọc; tất cả màu xanh ấy của trời thu như “đổ” xuống, như tràn qua muôn lá, cỏ cây ánh ngời lên sắc ngọc với trời thu, sắc ngọc ấy ai có thể quên? Sau này, thi sĩ Hàn Mặc Tử cũng viết trong bài “Đây thôn Vĩ Dạ”: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”… Màu ngọc của lá cũng là sắc thu làm nên cái hồn thu.
Khổ một nói đến gió, cây và cặp chim chuyền – cảnh vật hòa hợp tương giao, gắn bó; cái “duyên” ấy được cảm nhận qua tâm hồn một thi sĩ hào hoa, đa tình . Khổ hai nói về con đường và trái tim “rung động nỗi thương yêu”. “Nhỏ nhỏ”… “ xiêu xiêu”… “lả lả” – bây nhiêu nét vẽ tinh tế hiện lên trên một gam màu vàng nhạt của ngày thu tàn “nắng trở chiều”. Hồn thu của bức tranh quê gợi một nỗi buồn đẹp. “Buổi ấy”, trái tim “ta” xao xuyến, “rung động” một tình thu. Thi sĩ đi giữa đất trời, lắng nghe tiếng đập nhẹ của con tim, tâm hồn rộng mở giao hòa đi vạn vật, với con người, một thiếu nữ đang nhẹ bước trên đường:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu”.
“Em” và “anh” cùng dạo bước trên đường. “Em” bước đi “điềm nhiên”, trông tự nhiên, hồn nhiên, duyên dáng. Anh cũng đang say sưa ngắm cảnh đất trời, bước chân “lững đững” – thong thả, ung dung. Cuộc ngẫu gặp của đôi lứa thanh tân, tưởng “vô tâm” mà hình như đã có cái “duyên” trời sắp sẵn. Chẳng hò hẹn gì mà nhiều bâng khuâng!
“Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần”.
Cặp câu song hành bình đối nhiều ý vị “Anh với em” đẹp như một cặp vần trong “bài thơ dịu”. Cặp vần ấy ngân lên “rung động nỗi thương yêu”. Một so sánh độc đáo nói lên cái “duyên” lứa đôi:
“Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần”.
Cảnh vốn đẹp, giờ thêm người đẹp, sự giao hòa, giao cảm càng muôn phần tăng lên, sắc thu trong sáng, tình thu thanh khiết mơ màng. Bức tranh thu được dệt thêu bằng cái duyên của sự sống và một tình yêu rạo rực, xôn xao. Đúng như nhà văn Hoài Thanh đã nhận xét: “Xuân Diệu say đắm cảnh trời… khi vui, khi buồn đều nồng nàn, da diết…”
Khổ bốn nói về cảnh thu trên một không gian rộng và lạnh. Một áng mây chiều và một cánh cò thân thuộc của đồng quê. Không phải là mây xám. Cũng không phải “Mây trắng nghìn năm bay chơi vơi” (“Lầu Hoàng Hạc” – Thôi Hiệu). Mà là mây biếc, mây tuyệt đẹp. Hai chữ “về đâu” đầy gợi cảm. Hỏi mây hay hỏi nàng thiếu nữ? Cảnh vừa thực vừa mộng, nhiều man mác, bâng khuâng. Câu thơ “Con cò trên ruộng cánh phân vân” là một sáng tạo rất độc đáo của Xuân Diệu. Hình tượng thơ là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phong vị Đường thi và thơ mới. “Từ con cò của Vương Bột lặng lẽ bay với ráng chiều đến con cò của Xuân Diệu không bay mà cánh phân vân, có sự cách biệt của hơn một ngàn năm và của hai thế giới” (Hoài Thanh). Hình ảnh “cánh phân vân” đặc tả dáng cò đang lững lờ đôi cánh, không biết nên bay cao hay bay thấp, bay gần hay bay xa, bay lên hay đậu xuống…
Chiều thu tàn, bầu trời như trải rộng thêm ra. Cảm nhận ấy được diễn tả qua hai câu thơ tuyệt bút:
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Lấy cái hữu hạn, cô đơn, bé nhỏ (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn, mênh mông (bầu trời) là một nét vẽ tài hoa. “Chim nghe…” – sự chuyển đổi cảm giác đầy thi vị. Cánh chim nhỏ nhoi, bay miết, in dáng trên nền trời chiều bao la. Hoàng hôn buông xuống, sương thu chớm lạnh. Hoa khép cánh dần…
Thời gian nhẹ nhàng trôi “bước thu êm”. Tâm hồn thi nhân dào dạt tình thương mến. Chan hòa cùng đất trời, tạo vật. Mọi tâm hồn sẽ tự tìm đến với nhau và “thắm lại” (Xuân Hương), cần chi băng nhân? Nhà thơ khe khẽ reo lên: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Phải chăng ý câu thơ này: “Anh đã phải lòng em” như có người đã hiểu?
“Thơ duyên” đã tồn tại hơn nửa thế kỉ mà vẫn “duyên” vẫn đẹp. Bởi lẽ cảnh thu tuyệt đẹp, thơ mộng. Tình thu trong sáng, bâng khuâng. Từ chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến đến “Thơ duyên”, hơn bao giờ hết, ta cảm nhận sâu sắc rằng, “Xuân Diệu mới nhất trong các nhà thơ mới”. Chim đã có đôi, có cặp rồi, cho nên “Lòng anh thôi đã cưới lòng em” vậy. Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. “Thơ duyên” là một bài thơ tình của Xuân Diệu. Trong tuyển tập “100 bài thơ tình”, “Thơ duyên” mang vẻ đẹp một “hoa khôi” sáng giá.
2. Bình giảng bài Thơ duyên của thi sĩ Xuân Diệu.
Tôi không nghĩ rằng từ “duyên” ở câu mở đầu bài thơ đã được dùng đắc địa. Nó còn để lộ kĩ xảo và thu hẹp nghĩa từ “duyên” nơi đầu đề. Thực ra trong cái tứ bao quát toàn bài, “duyên” đồng nghĩa với sự “tác hợp” của “cơ trời” cho đôi lứa – một sự “tác hợp” nhiệm màu thông qua không khí xe duyên bao trùm cả vũ trụ.
Thơ duyên đúng là một bài thơ tình. Tình yêu ở đây sinh ra giữa đất trời và phát triển theo lẽ tương giao của vạn vật. Tất cả được tạo hóa xếp đặt trong một quan hệ tưởng vô tình mà hữu ý, tưởng hờ hững, vu vơ mà mối lái, ràng buộc. Đúng nửa số câu của bài thơ được dành để nói về thiên nhiên và nửa số câu còn lại dùng để tả người, và cách miêu tả thì luân phiên với từng đối tượng. Nhưng theo cách nhìn khác, thiên nhiên vẫn hiện diện liên tục trong bài thơ, làm bản nhạc đệm cho những bước chân tìm đến tình yêu. Tuy nhiên, sự hiện diện đó mỗi lúc một khác. Khi nhẹ êm len lỏi vào khoảng cách giữa những bước chân đi dạo ngập ngừng để gợi ý, dẫn dụ, rủ rê, khi trỗi dậy với những tiết tấu giục giã, thúc bách, đòi hỏi. Đúng là một cái “nền” tuyệt diệu, biết nói những lời cần thiết đúng lúc và đầy sức nặng.
Từ khúc dạo đầu, bản nhạc đệm đã trào lên những giai điệu hạnh phúc:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên
Cây me ríu rít cặp chìm chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá”
Sao nhiều sự vật và lắm động tác thế! Tất cả đều tìm đến nhau và tìm đôi, ríu rít cả lên. Những đường biên giới cách ngăn bị xóa mờ. Chiều trở thành chiều mộng và nhánh là nhánh duyên. Nhà thơ đã cố tình lướt qua những sắc màu và dáng nét cụ thể của chúng cho âm hưởng cuộc hòa thơ càng ngân nga. Câu thứ ba có ngữ pháp rất lạ. Cái gì đã đổ trời xanh ngọc. Chủ thể hành động ấy là ai? Thật khó giải thích. Chỉ biết rằng nếu câu thơ được viết lại cho đúng khuôn phép hơn, ví như Trời xanh đổ ngọc… thì có lẽ không còn gì. Chút choáng ngợp trong cảm xúc mất đi và vẻ ăm ắp, no đầy, tự dưng nghiêng đổ của thiên nhiên cũng sẽ không được cảm nhận một cách sâu sắc. Đừng quá rạch ròi ở đây. Ngay tiếng huyền ở câu thứ tư không chắc là một thứ tiếng gì rõ rệt. Chẳng qua “vạn vật nức xuân tâm” bỗng dưng phát tiếng, thật mơ hồ mà như có giai điệu dìu dặt, và có lẽ càng dìu dặt hơn trong vẻ mơ hồ ấy.
Rõ là thiên nhiên đang gây áp lực cho con người theo kiểu riêng của nó. Ý niệm về hạnh phúc được khơi lên cứ không ngừng tỏa lan những vòng sóng nơi tâm hồn, khiến ta nhìn vào đâu cũng chạm phải nỗi rung động mới mẻ của chính mình.
“Con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang, nắng trở chiều”.
So với mây câu thơ đầu, cảnh vật ở đây được nhìn gần và đượm tính “người” hơn. Các từ láy âm nhỏ nhỏ, xiêu xiêu, lả lả vừa mô phỏng tài tình các dáng điệu cùng những sắc thái chuyển động tinh vi của sự vật, vừa diễn tả rất đắt nỗi xao xuyến của lòng người khi lắng nghe những giao lưu bí ẩn trong trời đất. Có một thoáng nhìn hoang vắng phủ trùm lên cảnh vật lúc nắng trở chiều. Lạ, cũng trên con đường nhỏ nhỏ thân thuộc ấy, sao chiều nay trong gió xiêu xiêu, lòng ta bỗng mất vẻ an bằng, cũng chống chếnh, xiêu xiêu? Và cành lả lả, sao khéo giống con người đang trạng thái ngây ngất, bỗng phút chốc thấy mất hết sức lực vì một ảo giác nào đó? Thật không ngờ khuôn mặt tình yêu đã hiện lên giữa bộn bề những môi xúc cảm không rõ hình, rõ nét ấy:
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.
Sự thực từ đây con người đã bắt được vào nhịp điệu của thiên nhiên và cộng hưởng với nó.
Khổ thơ thứ ba mở ra một khoảng không gian bằng lặng và rộng rãi. Nhịp thơ trở lại điều hòa, khoan thai. Nhân vật trữ tình dường như muốn ngừng bước một vài giây để xác nhận lại, kiểm nghiệm lại chất lượng mới trong tình cảm của mình. Bản nhạc đệm thiên nhiên cũng chìm lắng đi để những bước chân vô tư lự của anh, của em trở thành đối tượng quan sát chính:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần”.
Không còn nghi ngờ gì nữa, trong bài thơ dịu của đất trời, anh với em như một cặp vần. Tuy nói điềm nhiên, chẳng theo gần, nhưng sự thật xúc cảm của nhân vật trữ tình đã mất đi vẻ “điềm nhiên”. Anh ta muốn reo lên, muốn kết luận nói lời ràng buộc. Sự vô tâm lúc này chỉ còn là cái vỏ nữa thôi.
Khổ thơ thứ tư quay trở lại với hình ảnh thiên nhiên và thừa tiếp rất khéo ý thơ trên:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”.
Âm thanh bản nhạc lúc này nổi lên có vẻ thúc giục và khuyến dụ ráo riết hơn, nhờ hiệu quả của các từ láy âm gấp gấp, phân vân nằm ở cuối câu, cuối nhịp và một mật độ dày đặc các động từ hoặc trạng từ, tính từ được động từ hoá: về, bay, gấp gấp, phân vân, nghe, giang, lạnh, xuống. Nó xui người ta tìm đôi hoặc thổ lộ yêu đương và nói lời “dứt điểm” vào đúng lúc chiều sắp tắt, sương xuống lạnh để trời thành quá rộng. Ngay cả làn mây biếc và con cò trên ruộng cũng đâu có nhởn nhơ duyên tương – chúng đang lựa chọn hay mải miết tìm về một chốn nào. Quả có mối ngộ giữa anh và em, khiến anh phải ngơ ngẩn trước tình yêu đang nảy nở, để rồi bật thốt lên một tiếng kêu đắm đuối: “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Trong từ cưới đó nghe ran một niềm hoan lạc.
Thơ duyên có một bố cục chặt chẽ, sáng sủa, thể hiện khá sâu cảm hứng lí giải của nhà thơ. Mặc dù có lần nói “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu” (Vì sao), nhưng trong dự án làm “pho tự vị” thật đầy đủ về nó, Xuân Diệu đã không chịu bỏ trống mục từ nào, kể cả mục từ Duyên đầy hóc búa. Bao nhiêu lần người ta đã nói đến sự lạ lùng của “cơ duyên” (Cơ duyên đâu bỗng lạ sao – Kiều) nhưng có lẽ chỉ đến Xuân Diệu, cái nghịch lí của phạm trù này mới được tường giải. Ta cảm thấy rõ rệt bàn tay xếp đặt của tạo hóa, tuy vô hình mà có sức mạnh rất hiện thực. Dưới sức ép của quy luật tìm đôi và giữa muôn ngàn sợi tư tình giăng mắc, làm sao người ta có thể không đến cùng nhau, làm sao có thể không yêu được? Duyên là thế – ở phần chìm của nó!
Nhưng “Thơ duyên” còn được hợp thành từ một nguồn cảm hứng khác nữa: cảm hứng bảy tỏ tình yêu và bộc lộ niềm ao ước được kết duyên cùng em của nhân vật trữ tình, ở đây cần phải có sự phân biệt giữa anh ta và nhà thơ. Nhà thơ luôn tỉnh láo và không quên nhiệm vụ “cắt nghĩa” của mình, còn nhân vật trữ tình thì say đắm đến ngẩn ngơ trước niềm xốn xang giao cảm của vạn vật. Anh ta đã nhìn thấy hay chỉ muốn thấy thiên nhiên trong vai trò xe kết tình duyên của nó. Không những thế, anh còn muốn tin ngay đó là chân lí – một chân lí vàng – cần được kể ra, nói lên cho đối tượng của mình cùng chia sẻ, để cùng đẩy sự điềm nhiên lui về thì quá khứ, ở đây, nhà thơ đã “về hùa” với nhân vật trữ tình, cho thiên nhiên hiện ra đúng khớp với niềm mong mỏi của anh ta, dẫu thừa hiểu rằng chẳng có thiên nhiên khác toàn bộ tâm giới trẻ đang yêu trong một biểu hiện trá hình mà thôi.
Sự giao thoa của hai nguồn cảm hứng nói lên chính cơ sở nhận thức và tình cảm vững chắc giúp Xuân Diệu phái hiểu một quan niệm sâu sắc về tình yêu: tình yêu là sản phẩm của tạo hóa, “nó chiếm hồn ta” một cách tự nhiên, vô hình mà không cưỡng nổi. Chính vì vậy, yêu là thuận theo lẽ trời, vô tội và đẹp. Nhiều năm tháng đã qua đi, cái duyên của bài Thơ duyên vẫn còn mặn mà như thách thức thời gian. Vâng, làm sao có được một bài thơ mà bao nhiêu độc giả đã yêu, đã thuộc và đã dùng làm “nhịp cầu tơ chắp ý duyên” bắc về muôn nẻo tình yêu.
3. Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về một số nét đặc sắc về nghệ thuật của bài thơ Thơ Duyên.
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận định “Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Bằng hồn thơ trong trẻo, tâm hồn tràn đầy tình yêu cùng khát khao giao cảm với đời mãnh liệt, Xuân Diệu đã để lại vô vàn tác phẩm giá trị. Trong số đó phải kể đến bài thơ “Thơ duyên”. “Thơ duyên” đã mang đến cho người đọc khung cảnh tuyệt sắc của thiên nhiên mùa thu và sự giao duyên, kết nối giữa “anh” và “em”.
Có thể nói, “Thơ duyên” đã khơi gợi sự hòa hợp, gắn bó đầy chất thơ giữa vạn vật trong thiên nhiên. Trước hết, điều này được thể hiện rõ nét thông qua nhan đề. “Duyên” mà thi sĩ muốn nhắc tới ở đây là sự gặp gỡ, giao hòa giữa thiên nhiên với thiên nhiên, thiên nhiên với con người và con người với con người. Từ đó, Xuân Diệu không chỉ miêu tả vẻ đẹp trời thu mà còn khắc họa những mối duyên tình hài hòa.
Ở khổ thơ đầu, khung cảnh chiều thu được tái hiện thật êm ả, nên thơ:
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”
Sự kết hợp giữa đường nét “nhánh duyên”, âm thanh “ríu rít”, màu sắc “xanh ngọc”, hình ảnh “cặp chim chuyền” đã cho thấy đôi mắt tinh tế cùng nét bút tài tình của Xuân Diệu. Bằng tất cả các giác quan, “ông hoàng thơ tình” vẽ nên bức tranh mùa thu tươi mát, dịu êm. Từng chi tiết, từng sự vật hoạt động tách rời nhưng lại có sự hài hòa, gắn kết với nhau. Tất cả cùng tạo nên một buổi chiều mộng ảo, đồng thời báo hiệu khoảnh khắc thu tới “nơi nơi động tiếng huyền.”. Âm thanh mùa thu như tiếng đàn tiếng ca, vang vọng khắp nơi, làm lòng người thêm chộn rộn, bâng khuâng hơn bao giờ hết.
Cảnh thu tiếp tục được gợi tả qua:
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu
Lả lả cành hoang nắng trở chiều;
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.”
Hàng loạt các từ láy “nhỏ nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” vừa phác họa đường nét mềm mại của cảnh vật, vừa gợi nỗi xao xuyến của lòng người. Dường như mọi thứ đều song hành, song đôi cùng nhau. Cảnh thu, tình thu đã khéo léo đưa chủ thể trữ tình ngược về “buổi ấy lòng ta nghe ý bạn”. Đi giữa trời thu, lắng nghe âm hưởng xa xưa vọng lại, lòng người bồi hồi nhớ đến “Lần đầu rung động nỗi thương yêu”. Khoảnh khắc trái tim đập rộn ràng, chủ thể trữ tình đã biết đây chính là cảm giác rung động trong tình yêu:
“Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững đững chẳng theo gần
Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu
Anh với em như một cặp vần.”
Giây phút “anh” và “em” đi trên con đường nhỏ trông thật xa cách. Nếu như “em” điềm nhiên bước đi chẳng chút vướng bận thì “anh” lại lững đững, thong dong theo sau. Nhìn bên ngoài, hai ta có vẻ cách xa nhưng bên trong đã có sự kết nối như “một cặp vần”. Đôi ta tưởng xa hóa lại gần, gắn bó, giao hòa mật thiết, không thể tách rời. Khung cảnh trở nên đẹp đẽ nhờ sự giao duyên của con người. Bức tranh mùa thu huyền diệu càng thêm tươi tắn, nhẹ nhàng tình thu, tình người. Bức tranh ấy đã ẩn chứa một trái tim rung động cùng tình yêu rạo rực ở “anh”.
Ta còn cảm nhận được nỗi ám ảnh về sự chảy trôi của thời gian trong thơ Xuân Diệu được thể hiện ở “Thơ duyên”:
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp
Con cò trên ruộng cánh phân vân
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Phía cao xa, từng đám mây màu biếc đã bắt đầu “gấp gấp” bay đi. Dưới ruộng đồng, mấy con cò cũng chuyển sang trạng thái “phân vân”, không biết nên đi hay ở. Trên khoảng trời rộng lớn, đàn chim nghe lời nhắc nhở mà giang rộng đôi cánh tìm về nơi trú. Chiều thu buông xuống, cảm giác lạnh lẽo như vấn vương đâu đây “hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”. Sự hối hả, giục giã của cảnh vật như lan tỏa tới lòng người. Và rồi, nỗi niềm bâng khuâng, xao xuyến càng làm “anh” khao khát được giao cảm, hòa hợp.
Chẳng thể níu giữ bước đi của thời gian nhưng “anh” đã:
“Ai hay tuy lặng bước thu êm
Tuy chẳng băng nhân gạ tỏ niềm
Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em.”
Chiều thu đến thật êm ả, bình yên nhưng ra đi lại sôi nổi, hối hả. Nhưng nhờ đó, duyên “anh” và duyên “em” mới có thể tìm đến nhau. Đôi ta từ người xa lạ mà trở nên đồng điệu về tâm hồn, biết rung động, thổn thức trước tình yêu. Sự kết nối của “anh” và “em” thật diệu kì làm sao. Trước mối giao hòa của thiên nhiên đất trời, hai ta cũng xích lại gần nhau mà chẳng cần “băng nhân gạ tỏ niềm”. Từ đây, chủ thể trữ tình bày tỏ tấm chân tình “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. “Anh” coi “em” như mảnh ghép còn thiếu của đời mình. Như vậy, duyên tình đôi ta thêm bền chặt nhờ “cưới”. Khổ thơ đã cho ta thấy khát khao giao hòa tuyệt đối trong tâm hồn con người.
Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, thi sĩ Xuân Diệu đã mang đến cho người đọc những hồn thơ trong trẻo, căng tràn nhựa sống. Các biện pháp tu từ như đảo ngữ “Cành me ríu rít cặp chim chuyền”, so sánh “Anh với em như một cặp vần” kết hợp với rất nhiều hình ảnh độc đáo “Lả lả cành hoang nắng trở chiều”, “Hoa lạnh chiều thưa” không chỉ làm nổi bật vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn gợi sự giao hòa, gặp gỡ và gắn kết của vạn vật.
“Thơ duyên” đã thể hiện sâu sắc khát khao giao cảm với cuộc đời ở Xuân Diệu. Qua bài thơ, ta lại càng khâm phục khả năng cảm nhận tinh tế cùng ngòi bút tài hoa của thi sĩ. Mong rằng, bài thơ sẽ mãi in lại dấu ấn trong lòng bạn đọc.
4. Viết bài văn phân tích, đánh giá tình cảm của tác giả với thiên nhiên trong bài thơ Thơ duyên (Xuân Diệu)
Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và “Thơ duyên” là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.
“Thơ duyên” là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ “duyên” có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập “Thơ thơ” độc giả cũng đã bắt gặp “nàng thơ” với sự “ngẩn ngơ”, u sầu trong “Đây mùa thu tới”. Còn “Thơ duyên” bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.
“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”
Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh động và nên thơ. Với không gian là buổi “chiều mộng” – lãng mạn, êm ái hòa vào đó “thơ trên nhánh duyên” gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui mừng, hò reo khi thu về khi có “cặp chim chuyền” đang ríu rít trên “cây me”. Động từ “ríu rít” lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp “chuyện trò” với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng lúc đó cả “bầu trời”, “lá” đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ). Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ “đổ” tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn rã với “động tiếng huyền”. Cụm từ “thu đến” như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.
Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.
“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu.”
Từ tầm nhìn trên cao tác giả “kéo” không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như “nho nhỏ”, “xiêu xiêu”, “lả lả” gợi sự đáng yêu trên nền nắng chiều. Động từ “trở” đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu từ “chiều” ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang nét mạnh mẽ, “đậm nắng” hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình. Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí tò mò của độc giả không kém là “nghe”. “Nghe” ở nghĩa tường minh tức là sử dụng thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật “ta” hành động “nghe” lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng “cố nhân”. Đó là cách dùng từ vô cùng đặc sắc của tác giả.
“Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần.”
Hình ảnh của sự “rung động” ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật “em” và “anh” cùng dạo bước trên con đường nhỏ. “Em” thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn “anh” thì “lững đững” – trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!
“Vô tâm – nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần.”
“Vô tâm” phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ “duyên”. Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một “cặp bài trùng khác” là sự giao duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như “cặp vần” – gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!
“Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”
Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy “gấp gấp” tạo cảm giác hối hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ “về đâu” lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng “phân vân”, đắn đo không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều này để rồi “giang thêm cánh”. Thi sĩ gán cho chim với động từ “nghe” như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp hay và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. “Hoa lạnh” vì có thể do “đẫm sương” hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.
Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa “bước thu êm” như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu. Từ “êm” gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng, e ấp “anh” lại nói về sự rung động của mình khi gặp em – “lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Động từ “cưới” như một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem “em” như là “mảnh ghép” còn lại của đời mình.
Bài thơ “Thơ duyên” không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài thơ cũng đã làm rất “tròn vai” của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu. Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối cùng ở mỗi khổ nhưng với “Thơ duyên” thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.
Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình – sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn.
5. Phân tích cấu tứ và hình ảnh trong bài Thơ Duyên của Xuân Diệu
Xuân Diệu là một trong những nhà văn nhà thơ lớn của Việt Nam. Ông nổi tiếng trong phong trào thơ mới. Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình. Trước cách mạng tháng tám ông có hai tập thơ: thơ thơ (1938) và Gửi hương cho gió (1945). Xuân Diệu là một nhà thơ luôn gắn bó với cuộc sống và sống hết mình cho cuộc sống. Thơ Duyên được in trong tuyển tập Xuân Diệu (Thơ). Bài thơ cho thấy khung cảnh mùa thu đẹp đẽ, tinh khôi và tươi mới, căng tràn sức sống. Qua cái nhìn của những người trẻ đầy nhiệt huyết yêu đời. Cấu tứ và hình ảnh đã được Xuân Diệu sử dụng trong bài thơ, giúp tác phẩm trở nên hấp dẫn và mang giàu giá trị.
“Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
…………………………………
Ai hay tuy lặng bước thu êm,
Lòng anh thôi đã cưới lòng em”
Cấu tứ được thể hiện ngay trong nhan đề bài thơ. Thơ Duyên là thơ để làm duyên, để bắt nhịp cầu cảm thông, mạch cảm xúc xuyên suốt bài thơ. Bài thơ là tình yêu của tác giả dành cho cuộc sống, yêu con người…. Là cái duyên, cái hài hòa đối với mọi vẻ đẹp, sự hòa hợp ở đời. Bài thơ được cấu tứ trong thể thơ bảy chữ với nhịp điệu nhẹ nhàng. Thơ bảy chữ mà có bốn câu thì thường chấm kết thúc và dòng cuối của mỗi khổ. Thế nhưng đến với “Thơ Duyên” thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Hai dòng sẽ tạo thành một câu, đây là điểm sáng tạo và mới mẻ trong thể thơ bảy chữ của Xuân Diệu. Cảnh vật mùa thu qua khổ thơ đầu là một bức tranh đầy sinh động, tươi vui. Không gian là buổi “chiều mộng” êm ái, lãng mạn cùng với “thơ trên nhánh duyên”. Không gian là cả bầu trời với một màu xanh ngọc, một màu trong xanh. Một không gian bao la, rộng lớn, huyền ảo. Tác giả cấu tứ trong không gian từ cao xuống thấp Với “con đường nho nhỏ gió siêu siêu”. Phù to cuối lại mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn với mây biếc, trời rộng. Bài thơ còn được cấu tứ với hàng loạt từ láy “ríu rít”, “nho nhỏ”, “siêu siêu”, “gấp gấp”….Cùng với các động từ “đổ”, “nghe”,…. Tất cả đã tạo nên phong cách nhà thơ Xuân Diệu. Khung cảnh mùa thu hiện lên vào một buổi chiều mộng với “đôi chim hót ríu rít, chuyền trên những cành me”. Động từ “ríu rít” cho thấy vẻ phấn khởi, vui mừng khi được trò chuyện với nhau.
Hình ảnh cây nem cô ấy nhớ lại một phần quê hương xứ sở của tác giả, nhớ lại Hà Nội xưa cũ. Tất cả như một tiếng reo vui mừng phấn khích chào đón một mùa thu mới, một ước mơ bấy lâu nay đã thành hiện thực. Hình ảnh con đường nhỏ, những làn gió, những cành hoang lả lá, những đám mây biếc, cánh cò…Cảnh vật dường như dân trở nên dịu dàng duyên dáng. Trong cái hương sắc của trời thu, Thi sĩ như lần đầu rung động. Anh và em bước đi trên con đường nhỏ với mây xanh lá rơi thật hồn nhiên và ngây thơ. Bài thơ kết thúc bằng “cánh chim trên trời rộng” với “hoa lạnh chiều thưa”. “Chim nghe” nhà thơ gán cho chim với động từ “nghe” như để sinh vật trở nên có hồn, có thể hiểu được bầu trời, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên. Đó là sự chuyển đổi cảm giác thật mới lạ. Tất cả những hình ảnh trên mang đến những cung bậc giàu giá trị, tạo nên nét riêng trong phong cách sáng tác Xuân Diệu. Bài thơ là sự xúc động trước cuộc giao duyên với cả thế gian, sự hòa quyện với thiên nhiên, với con người. Xuân Diệu đã sử dụng thể thơ mới bảy chữ độc đáo, hình ảnh thơ trong sáng, lời thơ gần gũi, sử dụng tinh tế tính nhạc trong thơ, cùng các từ láy, các phép nhân hóa và các từ ngữ đặc sắc. Đặc biệt là sử dụng thể thơ mới bảy chữ đầy mới lạ và sáng tạo.
Cấu tứ và hình ảnh đã được Xuân Diệu sử dụng một cách đắc địa giúp bài thơ trở nên hấp dẫn và gây ấn tượng mạnh mẽ lên người đọc. Tác giả đã viết lên sự rung động đầu đời của mình, sự giao cảm, kết nối giữa con người cực kỳ xa lạ nhưng lại là cái duyên được sắp đặt sẵn. Bài thơ khiến ta biết yêu cuộc đời biết quý trọng mọi vẻ đẹp của cuộc đời, góp phần làm cho cuộc sống trở nên ngày càng tươi đẹp hơn.