I. Tìm hiểu chung tác phẩm Tâm tư trong tù của Tố Hữu
1. Tác giả Tố Hữu
a. Tiểu sử
– Tố Hữu sinh năm 1920, mất năm 2002, tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành
– Quê quán: làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế
– Sinh trưởng trong gia đình nho học ở Huế và yêu văn chương
– Tố Hữu sớm giác ngộ cách mạng và hăng say hoạt động cách mạng và hăng say hoạt động, kiên cường đấu tranh trong các nhà tù thực dân
– Tố Hữu đảm nhiệm nhiều cương vị trọng yếu trên mặt trận văn hóa và trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
b. Phong cách thơ Tố Hữu
– Về nội dung: Thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị rất sâu sắc.
+ Hồn thơ luôn hướng đến cái ta chung với lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.
+ Thơ Tố Hữu mang đậm tính sử thi, coi những sự kiện chính trị lớn của đất nước là đối tượng thể hiện và cũng là nguồn cảm hứng cho thơ.
+ Những tư tưởng lớn của thời đại, những tình cảm lớn của con người, những sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc được phản ánh qua giọng thơ tâm tình, ngọt ngào, thương mến.
– Về nghệ thuật: Thơ Tố Hữu mang tính dân tộc rất đậm đà.
+ Sử dụng thể thơ dân tộc: thơ lục bát, thơ thất ngôn.
+ Ngôn ngữ thơ gần gũi, sử dụng nhiều từ ngữ và cách nói dân gian, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân
+ Thơ phát huy được tính nhạc của tiếng Việt ta.
c. Các tác phẩm tiêu biểu
+ Tập thơ Từ ấy (1937 – 1946)
+ Tập thơ Việt Bắc (1946 – 1954)
+ Tập thơ Gió lộng (1955 – 1961)
+ Tập thơ Ra trận (1962 – 1971)
+ Tập thơ Máu và hoa (1972 – 1977)
+ Tập thơ Một tiếng đờn (1992)
+ Ta với ta (1999)
2. Tác phẩm Tâm tư trong tù
* Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ Tâm tư trong tù trích trong tác phẩm Xiềng xích của tập thơ Từ ấy
– Sáng tác vào 29/4/1939 trong xà lim số 1 tại nhà lao Thừa Thiên Huế, năm Tố Hữu 19 tuổi. Đó là thời kỳ đen tối, giặc Pháp khủng bố trắng, nhiều chiến sĩ của Đảng bị giặc giết hoặc cầm tù.
II. Danh sách đề thi phân tích tác phẩm Tâm tư trong tù của Tố Hữu
1. Phân tích tâm trạng người chiến sĩ cách mạng qua bài thơ Tâm tư trong tù của Tố Hữu.
Văn thơ yêu nước và cách mạng Việt Nam có nhiều tác phẩm chứa chan tình yêu nước và căm thù giặc. Phan Bội Châu với “Hải ngoại huyết thư”, “Ngục trung thư”. Phan Châu Trinh có bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” sáng ngợi khí tiết của kẻ sĩ “uy vũ bất năng khuất”. Hồ Chí Minh với “Nhật kí trong tù” – những vần thơ thép “mênh mông bát ngát tình”. Phần “Xiềng xích” trong tập “Từ ấy” của Tố Hữu cũng có nhiều bài thơ đặc sắc được viết trong cảnh tù đày.
Bài thơ “Tâm tư trong tù” nằm trong phần “Xiềng xích” được Tố Hữu viết vào cuối tháng 4 năm 1939, tại nhà lao Thừa Thiên. Bài thơ phản ánh tâm trạng của người thanh niên cộng sản trong những ngày đầu bị thực dân Pháp bắt bớ, giam cầm.
Có đau đớn nào lớn hơn nổi đau đớn bị mất tự do? – “Nhất nhật tại tù thiên thu tại ngoại” – nằm trong ngục tối, người chiến sĩ cách mạng trẻ luôn luôn hướng tâm hồn mình ra ngoài song sắt, cảnh nhà tù tăm tối, chật hẹp, chết chóc và lạnh lẽo:
“Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ
Đây sàn lim manh ván ghép sầm u”.
Nhà thơ bị biệt giam trong một xà lim kín mít với “bốn tường vôi khắc khổ”, phải nằm trên nền nhà với những “manh ván ghép”. Một không gian nhỏ bé, chật hẹp, “lạnh lẽo”, “sầm u” vô cùng tăm tối.
Đối lập với xà lim biệt giam là cảnh vật và không gian bên ngoài, hầu như tràn đầy ánh sáng và âm thanh:
“Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”.
“lắng nghe” trong một khung cảnh im ắng đến dễ sợ, vì phòng biệt giam nào khác một nấm mồ. Giọng thơ tha thiết, bồi hồi khi người tù “lắng nghe” những âm thanh của cuộc đời dội đến.
Người tù “tai mở rộng” và “ lắng nghe” mọi âm thanh cuộc sống bên ngoài. Một tiếng rao đêm. Một tiếng chim tu hú gọi bầy. Một tiếng diều sáo… Tiếng gió thổi như thủy triều vỗ sóng. Tiếng chim reo. Tiếng dơi chiều đập cánh “vội vã “bay đi tìm mồi”. Và tiếng guốc, tiếng lạc ngựa gần, xa:
“Nghe chim reo trong, gió mạnh lên triều,
Nghe vội vã tiếng dơi chiều dập cánh,
Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh.
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về”
Câu thơ nào cũng có chữ “nghe”. Chữ “nghe” chứa đầy tâm trạng. Giọng thơ tha thiết bồi hồi. Cái khao khát tự do làm cho tâm hồn người tù rung lên: “Tiếng guốc đi về” trên những đường phố nhỏ, dài, nghe mơ hồ lúc to lúc nhỏ, lúc gần lúc xa càng làm cho nỗi nhớ, nỗi buồn cô đơn thêm da diết. “Tiếng guốc đi về” là cái âm thanh bình dị của đời thường, gợi hơi hướng con người, được người tù “lắng nghe” và cảm nhận đã đặc tả nỗi buồn cô đơn và khao khát tự do cháy bỏng. Đó là một nét đặc tả tâm trạng đầy ấn tượng.
Nỗi cô đơn là tâm trạng của người chiến sĩ trẻ, chưa dạn dày trong đấu tranh, lần đầu tiên sa vào lưới mật thám Pháp. Hai lần trong bài thơ, tác giả nói lên tâm trạng cô đơn ấy:
“Cô đơn thay là cảnh thân tù
Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực”…
Phải xa rời “đội ngũ”, phải cách li đồng chí, bè bạn. Còn đâu nữa những tháng ngày hoạt động sôi nổi? Giờ đây, bị nhốt trong phòng kín nhà lao, chân tay bị xiềng xích, cùm trói, phải nằm trên “sàn lim manh ván ghép”, nếm đủ mùi cay đắng, anh lại càng khao khát tự do. Anh tưởng tượng thế giới bên ngoài vô cùng đẹp đẽ:
“Tôi mơ hồ nghe tất cả bên ngoài
Đang ríu rít giữa một trời rộng rãi
Đang hút mật của đời sây hoa trái
Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày”..
Chỉ là “mơ hồ” thôi! Người tù đã vẽ ra một cảnh tượng “thần tiên” bên ngoài song sắt nhà tù: bầu trời “rộng rãi”, bầy chim cùng vạn vật “ríu rít” hót ca. Cuộc đời đầy hương thơm, mật ngọt, sây hoa trái. Cuộc đời trong tưởng tượng được thi vị hóa: “Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày”.
Nhưng rồi ảo tượng bồng bột ấy trôi qua nhanh. Anh tĩnh trí rồi tự phủ định những mơ tưởng trên là phi lí. Thời bấy giờ, Mặt trận dân chủ Đông Dương đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử một cách vẻ vang. Chiến tranh thế giới thứ II sắp hùng nổ. Thực dân Pháp tăng cường đàn áp và khủng bố. Cuộc sống của nhân ân ta vô cùng ngột ngạt. Nhà tù đế quốc chật ních chính trị phạm. Cuộc sống của đồng bào ta thuở ấy làm gì có cái cảnh “sây hoa trái”, có “Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày”. Nhưng rồi mẫn cảm về chính trị đã giúp nhà thơ tự điều chỉnh nhận thức “mơ hồ” của mình. Anh cay đắng và uất hận:
“Tôi chiều hay giam cấm hận trong lòng,
Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Tôi chỉ là một con chim non bé nhỏ,
Vứt trong lồng con giữa một lồng to”.
Cuộc đời ngoài song sắt nhà tù lúc bấy giờ tuy có “rộng rãi” hơn chút ít, nhưng xã hội Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp là một cái “lồng to”. Lao Thừa Thiên, Hỏa Lò, nhà tù Sơn La, Côn Đảo,… là những chiếc “lồng con” đáng sợ! Tố Hữu “chỉ là một con chim non bé nhỏ đang bị nhốt, bị đày đọa trong cái “lồng con” – nhà lao Thừa Thiên. Hình tượng thơ được đặt trong thể tương phản đối lập để nói lên những suy tư sâu sắc của người chiến sĩ cách mạng về cảnh lao tù, về thân phận những chính trị phạm, về nỗi lầm than của dân tộc! Anh uất hận rung lên:
“Ở ngoài kia… biết bao thân tù hãm,
Đọa đày trong những hố thẳm không cùng”
Anh sẵn sàng chấp nhận những cay đắng, nhục hình và cô đơn, nâng cao dũng khí trước mọi thử thách:
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ!
Giọng thơ mỗi lúc một trở nên mạnh mẽ, uất hận, thể hiện một niềm tin sắt đá, một ý chí chiến đấu kiên cường, khẳng định lòng trung thành vô hạn với lí tưởng cách mạng cao cả. Anh nhìn rõ những chặng đường khổ ải phía trước, những địa ngục trần gian:
“Nơi đày ải là Đắc Pao, Lao Bảo
Là Côn Đảo, thế giới của ưu phiền”
Sau này, trong nhiều bài thơ khác, anh nói lên quyết tâm sắt thép của người thanh niên cộng sản, sẵn sàng chấp nhận mọi hi sinh:
“Đời cách mạng từ khi tôi đủ hiểu,
Dấn thân vô là phải chịu tù đày,
Là gươm kề cổ, súng kề tài,
Là thân sống chỉ coi còn một nửa… “
( Trăng trối – 1940)
Sa vào lưới mật thám, bị tù đày chưa hẳn là người chiến bại? Anh tự nhắc nhở mình giữ trọn vẹn phẩm chất và khí tiết người cách mạng:
“Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin,
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”.
Sống trong cảnh cô đơn thân tù, tâm trạng của anh day dứt, tự đấu tranh để vượt lên. Không thể mềm lòng, yếu đuối! Không được bi quan, dao động! Vấn đề sống và chết được đặt ra một cách nghiêm túc và gay gắt. Tố Hữu đã trái qua những dây phút tự đấu tranh căng thẳng. Câu thơ như một lời thề vang lên mạnh mẽ và sôi sục:
“Tôi chưa chết nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc!”
“nghĩa là… nghĩa là… nghĩa là…”, được nhân đi nhân lại ba lần, thể hiện một khí phách, một ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất!
“Tâm tư trong tù”, “Con cá, chột mưa”, Trăng trối”… là những bài thơ xuất sắc nhất của Tố Hữu viết trong nhà tù đế quốc những năm 1939, 1940. Bài thơ “Tâm tư trong tù” đã phản ánh chân thực tình cảm và tâm trạng của người chiến sĩ trẻ trong những ngày đầu bị đày đọa trong ngục tối: nỗi buồn cô đơn, lòng khao khát tự do, quan niệm về vấn đề sống và chết, về khí tiết của người cộng sản…
Cảm xúc chân thực. Tâm trạng vận động đúng quy luật đấu tranh cách mạng của người chiến sĩ chân chính trong chốn lao tù. “Tâm tư trong tù” có nói đến cô đơn, nhưng đích thực là khúc tráng ca về tự do. Bài thơ đẹp vì người chiến sĩ ấy đã sống tuyệt đẹp trong “Máu lửa – Xiềng xích – Giải phóng”.
2. Bình giảng đoạn thơ thứ hai trong bài Tâm tư trong tù của Tố Hữu.
Tập thơ “Từ ấy” – tập thơ 10 năm của Tố Hữu (1937-1946) gồm có 72 bài thơ, trong đó, những bài trong phần “Xiềng xích” nói lên nỗi buồn cô đơn, niềm khao khát tự do và tự khẳng định bản lĩnh mình của người thanh niên cộng sản trong cảnh tù đày. Đây là đoạn thơ hay nhất, xúc động nhất trong bài thơ. Giọng thơ bồi hồi, náo nức:
” Cô đơn thay là cảnh thân tù,
…Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về”.
Bài thơ này được viết vào ngày 29.4.1939, khi nhà thơ bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao tỉnh Thừa Thiên – Huế. Đó là một thời kì đen tối: giặc Pháp khủng bố trắng, biết bao nhiêu chiến sĩ của Đảng bị giặc giết hại và cầm tù. Cả đoạn thơ ghi lại diễn biến tâm trạng của Tố Hữu trong những ngày đầu sống trong cảnh tù ngục.
Đoạn thơ gồm có 8 câu,; 4 câu đầu như một điệp khúc, hai lần được nhắc lại thiết tha bồi hồi. Nỗi buồn cô đơn đầy ắp tâm trạng. Lần đầu tiên người chiến sĩ trẻ bị đế quốc bắt giam và cầm tù. Cảnh ngộ mới bi thảm, sao mà chẳng cô đơn khi bị nhốt “giữa bốn tường vôi khắc khổ'”? Trước đó không lâu, tác giả còn là một thanh niên học sinh, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, hăng hái hoạt động cách mạng, trong phong trào sinh viên học sinh yêu nước. Niềm vui dào dạt trái tim tuổi thanh xuân:
“Ô vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo
Bốn phương trời và sau dấu muôn chân
Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân
Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng”.
(Hi vọng – 1938)
Tâm hồn người chiến sĩ cách mạng trẻ “lù một vườn hoa lú – Rất đậm hương vù rộn tiếng chim”. Cuộc đời phía trước là những mùa xuân bát ngát với bao niềm say mê lạc quan yêu đời: “Bạn đời ơi, vui chút với trời hồng!”. Thế mà giờ đây bị cùm trói, nằm trên xà lim lạnh lẽo, tốì tăm, bị ngăn cách hoàn loàn với thế giới bên ngoài. Dự là những thử thách hết sức nặng nề. Làm sao tránh khỏi cảm giác cô đơn?
“Cỏ đơn thay lù cảnh thân tù!”. Đó không phải là sự than thở, một tiếng kêu rên hèn yếu. Đó là sự xác nhận – xác nhận một sự thật phũ phàng, cay đắng. Thời gian trôi qua trong nhà tù dài lê thê, nặng nề: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Lại bị cách biệt với đồng chí, đồng bào nên càng cô đơn. Suốt đêm ngày, người chiến sĩ trẻ bị giam hãm trong ngục tối luôn luôn hướng ra bện ngoài với bao day dứt và khao khát:
“Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực,
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”.
Hai thế giới cách biệt bởi song sắt nhà tù. Một chút ánh sáng “nhỏ nhẹ” cũng phải len qua khe cửa nhà ngục mới đến được với người chiến sĩ. Nhà thơ chỉ còn biết “lắng nghe” mọi âm thanh, ngoài đời vọng đến. Người tù cấm cố đón nhận mọi âm thanh, với một thái độ náo nức, mãnh liệt, với tấm lòng ham sống, thiết tha, yêu đời, để rồi thốt lên tiếc nuối: “Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!”.
Chữ “nghe” được nhắc lại nhiều lần. Tâm trạng bồn chồn như được xoáy sâu. Giọng thơ trở nên xúc động bồi hồi, tha thiết. Cuộc sống trào lên như nhắc nhở, nghe như vẫy gọi. Phải gắn bó với nhịp sống bên “ngoài kia”. Phải gắn bó với phong trào cách mạng. Nhà thơ lắng tai nghe tiếng chim hót ban mai, tiếng gió thổi, tiếng dơi chiều đập cánh lúc hoàng hôn. Những âm thanh xa, gần, mơ hồ, thân thuộc ấy, giờ đây cảm thấy mới hơn, sôi động và náo nức hơn. Chim không chỉ hót mà “ reo”, gió không chỉ thổi mà dâng lên như thủy triều vỗ sóng, và tiếng dơi chiều đập cánh nghe “ vội vã” khác thường! Nằm trong phòng biệt giam, người chiến sĩ trẻ rung lên vì cảm động. Bức tranh sinh hoạt của quê hương được đặc tả qua tiếng nhạc ngựa, tiếng guốc gõ trên con đường nghe nhỏ, gần rồi xa dần trong đêm khuya:
“Nghe lạc ngựa rùng chân bên giếng lạnh,
Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về…
Thật là tinh tế trong gợi tả và biểu cảm. Một sự tiếc nuối dâng lên. Chỉ một tiếng lạc ngựa cũng đủ khơi gợi bao cảm xúc và tưởng tượng. Nhà thơ cảm nhận và hình dung ra cái “rùng chân” của con ngựa bên giếng cổ, và cả cái lạnh đã thấm sâu vào làn nước ở đáy tầng sâu. Người tù thao thức càng cảm thấy mình cô đơn và lạnh lẽo hơn bao giờ hết! ở hoàn cảnh tù đày, sự cô đơn không hề làm cho người chiến sĩ cách mạng tàn lụi và bé nhỏ đi, mà trái lại, cô đơn là để thức tỉnh, lay gọi và vươn tới, khẳng định một tâm thế giữ trọn “trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn”.
Câu thơ “Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về” là một câu thơ rất hay, vần thơ bình dị mộc mạc ấy lại có sức lay động lòng người một cách thấm thía. Tất cả mọi âm thanh được nhắc đến bên trên (chim reo, tiếng dơi chiều đập cánh, tiếng gió thổi, tiếng lạc ngựa rung chân,…) chỉ là những nốt nhạc dạo đầu, khơi dòng tâm tư,… Và chỉ khi tiếng guốc to, nhỏ xa dần xuất hiện mới nhức nhối lòng người, mới xoáy sâu vào trái tim lòng người. Bởi lẽ, tất cả mọi âm thanh ấy đều hãy còn xa con người, chưa mang hơi ấm của con người. Chỉ có tiếng guốc bình dị yêu thương, mới là cuộc sống đích thực, mới nghe qua tưởng chừng lạc lõng, thậm chí còn tầm thường nữa. Tiếng guốc ấy gắn liền với mồ hôi, nước mắt của cần lao với bao lo toan về cơm áo hàng ngày. Tiếng guốc ấy cũng nhức nhối như “một tiếng rao đêm” nghe được giữa đêm khuya sau song sắt nhà tù:
“Rao đi em, kẻo nữa quá khuya rồi,
Anh nằm nghe qua cửa khám, xa xôi
Tiếng em bước trên đường đêm nhỏ nhỏ
Nhưng cũng đủ cho lòng anh nắm rõ”
(Xà lim Quy Nhơn, tháng 11.1941 )
Từ mái trường đến với con đường cách mạng, rồi bị tù đày, tiếng guốc gợi nhớ gợi thương một thời trai trẻ với bao mộng đẹp. Nó chạm tới nơi sâu thẳm đáy tâm hồn và cuộc sống nên vang động sâu xa trong tâm tư nhà thơ. Mà nhà thơ lại đang bị tách khỏi cuộc sống, trong cảnh ngộ thân tù cô đơn, tiếng guốc dưới đường xa đi về càng nhói mạnh, càng quặn thắt nhói đau tim gan.
Có đặt tám câu thơ trên vào trong cả bài thơ và gắn nó với ba tiếng “Bạn đời ơi” như một điệp khúc vang ngân trong tập thơ “Từ ấy” mới cảm nhận đầy đủ ý nghĩa sâu xa, lòng khao khát tự do cháy bỏng. Và tâm hồn người chiến sĩ trẻ lúc nào cũng hướng về ánh sáng, muốn thoát khỏi cảnh tù đày cùng đồng chí dấn thân vào gió bụi. Cũng như “Tâm tư trong tù”, bài thơ “Khi con tu hú…” chứa đầy tâm trạng:
“Ta nghe hè dậy bên lòng,
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi!
Ngột lùm sao, chết uất thôi,
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu!”.
Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Thơ hay là ở sự chân thực, là sự diễn tả tinh tế những rung động của hồn người trong chiều sâu và tầm cao của mạch sông và cuộc đời. Đoạn thơ trên vừa hướng nội, vừa hướng ngoại. Tưởng là cô đơn sầu não, nhưng sôi sục, trào dâng nhiệt huyết, bừng bừng khí thế. Nó là khúc tráng ca tự do.
3. Phân tích tâm trạng của Tố Hữu trong bài thơ Tâm tư trong tù.
Bài thơ Tâm tư trong tù được Tố Hữu sáng tác trong thời gian ông bị kẻ thù bắt giam tại xà lim hoàn toàn cách biệt với cuộc sống bên ngoài ở nhà lao Thừa Thiên. Đối với một thanh niên mới mười chín tuổi vừa được giác ngộ cách mạng, đang hăng say hoạt động giữa bạn bè đồng chí với bao niềm vui sướng tin yêu bồng bột, có phần lãng mạn thì việc bị bắt giam như thế là một bước ngoặt gây xáo động mạnh mẽ trong tâm hồn. Có lẽ vì thế mà Tâm tư trong tù đã thể hiện rất chân thật những cảm xúc, những nhận thức của một người trẻ tuổi, một người chiến sĩ lần đầu tiên bị giam hãm trong tù ngục, đó là nỗi cô đơn và niềm khao khát tự do, là tâm trạng phấn chấn vì tự đấu tranh được với mình, là lời thề giữ vững ý chí và quyết tâm chiến đấu vì sự nghiệp cách mạng.
Ở phần đầu bài thơ, Tố Hữu đã thể hiện nổi bật cảm giác cô đơn của mình qua sự đối lập tương phản giữa hai cảnh đời, giữa hai thế giới. Trước hết, cảm giác cô đơn được xác nhận ngay trong điệp khúc: “Cô đơn thay là cảnh thân tù ”. Tiếng kêu ấy vang lên khi nhà thơ cùng một lúc hướng giác quan về hai phía tai “nghe tiếng đời lăn náo nức” bên ngoài, và mắt nhìn cận cảnh trong bốn bức tường nhà giam chặt hẹp, tối tăm.
Đây âm u đôi ánh lạt ban chiều
Len nhẹ nhẹ qua rào ô cửa nhỏ
Đây lạnh lẽo bốn tường vôi khắc khổ
Đây sàn lim manh ván ghép sầm u…
Cảnh trong tù được quan sát và miêu tả rất cụ thể: Vài tia nắng nhợt nhạt lúc hoàng hôn khiến cho không khí nhà giam thêm “âm u”, một ô của sổ vốn đã nhỏ bé nhưng lại được rào kín bằng những song sắt kiên cố đến mức ngay cả tia nắng chiều yếu ớt cũng phải “len nhẹ nhẹ mới vào được bên trong, bốn bức tường xám xịt càng làm tăng thêm vẻ ghê sợ của nơi đày đọa con người, những mảnh ván đen đủi càng làm cho phòng giam thêm “sầm ù” (tối sầm, âm u). Tất cả chỉ có vậy, ảm đạm và nghiệt ngã đối với một người tuổi trẻ đang yêu đời, khao khát tự do. Điệp từ “dãy” tầng tầng lớp lớp giới thiệu những cảnh tù đày cụ thể và diễn tả tâm trạng khổ sở, day dứt của người trẻ tuổi.
Chính trong cảm giác cô đơn. Tố Hữu đã tập trung cao độ sự chú ý về thính giác để lắng nghe những âm thanh của thế giới bên ngoài đang vọng vào nhà giam:
Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức
Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu!
Nhà thơ nghe mà như nhìn thấy tất cả những hình ảnh sinh động đang diễn ra ở thế giới bên ngoài những con chim vui hót, những con dơi chiều đập cánh thật “vội vã’’, một con ngựa dừng chân bên giếng lạnh, ai đó đang đi xa đần trên đường. Điệp khúc “Ở ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu” đã diễn tả rất thành công nỗi thèm khát cuộc sống tự do không giấu giếm của tác giả. Với người đang bị giam trong ngục, những âm thanh đó có sức gợi rất lớn, đặc biệt là gợi lên niềm khao khát được hòa mình vào cuộc sống tự do:
Ôi! Hôm nay sao nhựa sống tràn trề
Trong những tiếng nghe chừng quen thuộc quá!
Nghe gió xối trên cành cây ngọn lá
Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài.
Cũng vì quá cô đơn và khao khát tự do nên nhà thơ đã tưởng tượng ra cái thế giới bên ngoài là một trời rộng rãi. đời xây hoa trái… Hương tự do thơm ngát cà ngàn ngày… ”, Nhưng rồi những giây phút mơ mộng và đầy ảo tưởng rồi cùng qua đi, nhà thơ đã bình tĩnh, tỉnh táo lại để suy xét về nhiều điều, về tự do. Tố Hữu thấy rõ dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến, cái thế giới bên ngoài kia cũng chẳng có tự do thực sự. Trái lại:
Ở ngoài kia… biết bao thân tù hăm
Đọa đày trong những hố thẳm không cùng
Từ đó, nhà thơ cảm nhận sâu sắc rằng, cả xã hội đương thời cũng chỉ là một nhà tù khổng lồ, bao trùm vô số những nhà tù nhỏ khác, ở đây có một mối liên tương giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân và dân tộc, bi kịch của nhà thơ chỉ là một trường hợp cụ thể của bi kịch mất nước của dân tộc ta mà thôi:
Tôi chiều nay giam cấm hận trong lòng
Chỉ là một giữa loài người đau khổ
Tôi chỉ một con chim non bé nhỏ
Vứt trong lồng con giữa một lồng to.
Lời thề giữ vững ý chí và quyết tâm chiến đấu:
Dự đoán về con đường tù đày
Khẳng định quan niệm sống chết
Khi đã nhận thức đúng đắn về thực trạng đen tối của xã hội đương thời, bài thơ đã có sự chuyển hướng trong mạch tâm tư của chủ thể trữ tình. Nhà thơ thấy được giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc có chung thân phận, cũng có nghĩa là có chung trách nhiệm, bản thân nhà thơ là một tù nhân nhưng cũng là một người đứng cùng đội ngũ với những chiến sĩ ở ngoài nhà tù đang dũng cảm chiến đấu cho Tổ quốc độc lập tự do. Tuy thừa nhận tâm trạng cô đơn trong tù là không thể tránh khỏi (Cô đơn thay là cảnh thân tù) nhưng khi đã xác định tư thế người chiến sĩ, nhà thơ không còn cảm thấy cô đơn nữa mà cảm thấy phấn chấn, quyết tâm tiếp tục cuộc chiến đấu ngay trong nhà tù. Bằng cảm hứng tự hào, tác giả đã khắc họa hình ảnh người chiến sĩ trẻ tuổi hiên ngang, bất khuất trong các văn thơ rất hào hùng dưới đây:
Tôi chỉ một giữa muôn người chiến đấu
Vẫn đứng thẳng trên đường đầy lửa máu
Chân kiêu căng không thoái bộ bao giờ!
Chính sự cảm nhận về mối quan hệ gắn bó hòa hợp giữa cuộc sống chung của cá nhân với vận mệnh chung của dân tộc đã tiếp một nguồn sức sống mới để nhà thơ thêm kiêu hãnh, tự hào về lí tưởng cao đẹp mà mình đã lựa chọn, thêm sức mạnh để vượt qua những thử thách khó khăn. Một lần nữa trí tưởng tượng của Tố Hữu lại vượt lên trên thực tại lao tù nhưng không phải để đến với những ảo ảnh như ở đoạn thơ trên mà để dự đoán về những bước sắp tới trên con đường tù đày, từ đó thêm quyết tâm giữ vững lòng trung tình với cách mạng:
Nơi đây ai là Đắc Pao, Lao Bảo
Là Côn Lôn, thế giới của ưu phiền
Tôi sẽ cười như kẻ sẵn lòng tin
Giữ trinh bạch linh hồn trong bụi bẩn
Tố Hữu đã kết thúc bài thơ của mình với những câu thơ mang dáng điệu của những lời Tuyên ngôn phát biểu về quan niệm sống, chết của người chiến sĩ cách mạng. Đối với họ, đã làm người thì không thể sống kiếp nô lệ nhục nhã, sống là phải đấu tranh cho tự do, là sẵn sàng chấp nhận mọi gian khổ, nguy hiểm, hi sinh, còn sống là còn chiến đấu không ngừng
Tôi chưa chết, nghĩa là chưa hết hận
Nghĩa là chưa hết nhục của muôn đời
Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi
Còn trừ diệt cả một loài thú độc
Với ý thơ này, ông Đặng Thai Mai có nhận xét: “Những câu thơ như thế chính là bản quyết tâm thư của một người chiến sĩ không hề do dự trước nhiệm vụ, không lùi bước trước bạo lực quân thù”.
Có thể thấy sự vận động từ cảm xúc đến nhận thức trong bài thơ này không hề tạo tính chất mâu thuẫn giữa hai yếu tố ấy. Trái lại, chúng hoàn toàn thống nhất và cùng góp phần biểu hiện đặc điểm hồn thơ Tố Hữu trên chặng đường cách mạng đầu tiên: đó là sự cố gắng không ngừng để vượt lên, để điều khiển, chế ngự những cảm xúc bồng bột của tuổi trẻ bằng sự soi sáng của nhận thức xã hội, của ý chí cách mạng.