15:57, 27/11/2023
Rồi ngày mai con đi
Rồi ngày mai con xuống núi
Ngỡ ngàng
Đất rộng, trời thấp
Bước đầu tiên
Con vấp gót chân mình
Rồi ngày mai con xuống núi
Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười
Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng
Mỗi lần vấp sực bước đi
Sẽ sực nhớ người thầy trên núi
Bố mẹ cho con cán rìu, lưỡi hái
Vung một sải quang ba ngọn đồi
Nhưng chưa đủ mo cơm, tay nải
Trên đường xa về phía chân trời
Người thầy ngồi lặng lẽ sương khuya
Áo cổ lông không ngăn được rét rừng như chích
Chăm giáo án như chăm từng đốm than tí tách
Thắp lửa hồng ấm mãi tim con
Ngọn lửa ấy là mo cơm khi đói
Là chiếc gậy con vịn đường mưa
Là ngón tay gõ vào chốt cửa
Phía sau kia rộng mở nụ cười
Ngày mai con xuống núi
Cùng tay nải hành trang đầu tiên
Đi như suối chảy về với biển
Chớ quên mạch đá cội nguồn.
Lò Cao Nhum
Lò Cao Nhum, một thi sĩ dân tộc Thái, đã có nhiều tác phẩm thơ được người đọc chú ý như “Rượu núi”, “Sàn trăng”, “Tung còn”… Thơ anh mới mẻ, đậm chất vùng miền các dân tộc Tây Bắc, có trách nhiệm với cộng đồng trước những đổi thay, mai một của văn hóa truyền thống. Bài thơ “Rồi ngày mai con đi” của Lò Cao Nhum được chọn vào giảng dạy trong trường phổ thông, là lời tâm sự của bậc làm cha làm mẹ dặn dò con mình thật cảm động và sâu sắc. Bài học dạy con trong tác phẩm như một hành trang, một “ngọn lửa hồng” nuôi dưỡng tâm hồn người con trên bước đường phía trước.
Thường lệ, sự chia xa bao giờ cũng mang lại nỗi buồn cho cả người ra đi và người ở lại. Lò Cao Nhum làm nghề dạy học ở vùng cao nhiều năm, sau mỗi mùa hoa phượng cháy đỏ trời lại một lứa học trò xuống núi, tiếp tục với khát vọng mới của mình. Tác giả đã mở đầu bài thơ thật bình dị mà sâu lắng qua tiếng lòng người cha dặn con: Rồi ngày mai con xuống núi/Ngỡ ngàng/Đất rộng, trời thấp/Bước đầu tiên/Con vấp gót chân mình.
“Xuống núi” là biết con mình đến với một bờ bến mới lạ, rộng lớn hơn nhưng cũng nhiều khó khăn hơn. Người cha chỉ biết nhìn con ra đi và căn dặn những điều gan ruột nhất. Người con ngỡ ngàng trước “đất rộng, trời thấp” cũng phải. Thực ra, qua cách diễn đạt này, tác giả muốn nói đến tâm trạng ngạc nhiên trước biết bao đổi thay trong mắt người con, người học trò lần đầu tiên xuống núi.
Tuy nhiên, chân thật và hàm súc trong lời dặn của người cha với con mình nằm ở khổ thơ thứ hai. Xuống núi rồi, phố phường tấp nập, đông đúc với nhiều “ngã bảy, ngã mười”, con sẽ rất dễ lạc đường. Đó là lời căn dặn của một người từng xuống núi, giàu kinh nghiệm sống, thấu hiểu cuộc đời. Nhưng lạc đường vẫn có thể hỏi han để tìm ra lối về nhà, điều này cha vẫn chưa lo lắm. Mẹ cha sợ nhất là con không nhận ra được lòng người khi mà “đỏ, vàng, đen, trắng” lẫn lộn, mờ ảo: Rồi ngày mai con xuống núi/Gặp phố phường ngã bảy, ngã mười/Gặp lòng người đỏ, vàng, đen, trắng/Mỗi lần vấp sực bước đi/Sẽ sực nhớ người thầy trên núi.
Sau mỗi lần vấp ngã, người cha mong con mình hãy hướng đến người thầy dạy học trên núi. Trong cái nhìn của người cha, người thầy là hình mẫu, sự chuẩn mực để con soi chiếu vào đó mà học tập, trưởng thành. Thầy vẫn ở trên núi cao, dõi nhìn theo người học trò yêu quý để động viên, chia sẻ. Con nhớ về thầy chính là đã tìm cho mình một điểm tựa, một niềm tin yêu để tiếp thêm sức mạnh trong hành trình đi về phía tương lai.
Cha mẹ thương con, nhưng chỉ cho con “cán rìu, lưỡi hái”, người thầy mới cho con cái chữ để đi về phía chân trời xa. Bố mẹ làm nông, chưa lo đủ đầy “mo cơm, tay nải” cho con trên đường đi xa. Sự lao động cần mẫn ấy đã đành là rất cần thiết nhưng không đủ làm hành trang cho con, nhất là trên bước đường còn nhiều chông gai, thử thách: Bố mẹ cho con cán rìu, lưỡi hái/Vung một sải quang ba ngọn đồi/Nhưng chưa đủ mo cơm, tay nải/Trên đường xa về phía chân trời.
Thầy sẽ là người cổ vũ tinh thần, thắp thêm nghị lực cho con tiếp bước bên cạnh những người thân yêu nhất. Thầy trở thành sứ giả của niềm tin yêu và khát vọng dấn thân để đạt được những điều lớn lao trong cuộc sống. Thầy không có vật chất, tiền bạc, nhưng thầy sẽ thắp lên ngọn lửa hồng nơi trái tim học trò bằng chính trang giáo án cần mẫn sớm hôm của mình. Hình ảnh “ngọn lửa” vì thế trở thành biểu tượng đẹp đẽ, thiêng liêng về một ước mơ rộng lớn, cao vời; là tiền đồ rạng ngời, hạnh phúc của cuộc đời người học trò đang đi về phía tương lai: Ngọn lửa ấy là mo cơm khi đói/Là chiếc gậy con vịn đường mưa/Là ngón tay gõ vào chốt cửa/Phía sau kia rộng mở nụ cười.
Nghệ thuật so sánh ngọn lửa là “mo cơm khi đói”, “là chiếc gậy vịn con đường mưa”, “là ngón tay gõ vào chốt cửa” để gặp những nụ cười thiện lành, tin cẩn làm cho ý thơ giàu hình tượng, nhiều hàm ý qua biểu đạt ngắn gọn của nhà thơ Lò Cao Nhum.
Các khổ thơ trên được lặp lại hai lần điệp khúc “Rồi ngày mai con xuống núi” cùng với các từ xưng hô “bố mẹ”, “thầy”, “con” nghe thật gần gũi, thân thiết. Ta như hình dung người cha đang ngồi bên đứa con mình, nắm tay dặn dò cẩn thận, tỉ tê về bao điều thiệt hơn, sướng khổ trong đời, nghĩa là cha con đang đối diện nhau trong những giây phút chia tay. Cảm động và bùi ngùi không sao nói hết. Đến khổ cuối bài, Lò Cao Nhum tiếp tục mạch thơ dặn dò nhưng sâu lắng và tha thiết hơn. Đó là bài học về trách nhiệm với cội nguồn, với quê hương bản quán, con không bao giờ được quên: Ngày mai con xuống núi/Cùng tay nải hành trang đầu tiên/Đi như suối chảy về với biển/Chớ quên mạch đá cội nguồn.
Bài thơ đâu chỉ viết cho một người, một thế hệ mà đó còn là mạch nguồn của quá khứ nhắn nhủ với hôm nay và cả mai sau.
Lê Thành Văn