Cần sự vào cuộc của Nhà nước, cơ sở chăn nuôi, doanh nghiệp…
Chia sẻ tại tọa đàm trực tuyến với chủ đề: “Thúc đẩy chăn nuôi bền vững, tăng trưởng xanh” sáng 22/10, TS.Nguyễn Đức Trọng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam, nguyên Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho hay: Có thể nói chăn nuôi của chúng ta hiện nay phát triển tương đối tốt, tăng trưởng 5-6 %/năm, sản xuất khoảng trên 7 triệu tấn thịt. Tốc độ phát triển như thế nên cũng có những hệ lụy, đó là khó khăn trong việc tổ chức tiếp cận khoa học, xử lý chất thải, an toàn thực phẩm,…
Hàng năm ngành chăn nuôi Việt Nam thải ra môi trường một lượng lớn chất thải. Trong đó, giai đoạn 2018 – 2022, mỗi năm có trung bình trên 60 triệu tấn phân và trên 304 triệu m3 nước thải được thải ra từ các loại vật nuôi chính cần phải xử lý, tái sử dụng để giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường chăn nuôi. Để giải quyết khâu môi trường trong lĩnh vực chăn nuôi hiện nay đang đòi hỏi đầu tư lớn về kinh phí, điều này gây khó khăn cho cả doanh nghiệp, người chăn nuôi và ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm.
Chính vì vậy, theo ông Trọng, chúng ta cần có công nghệ tiên tiến, phù hợp với điều kiện của mình để phát triển được môi trường, an toàn chăn nuôi cùng với đó là có thể truy xuất được nguồn gốc, an toàn thì chăn nuôi mới có thể phát triển bền vững được. Để làm được điều này, từ Nhà nước, cơ sở chăn nuôi, doanh nghiệp phải cùng làm mới có thể phát triển bền vững.
Vậy làm sao để phát triển chăn nuôi bền vững theo hướng xanh, thân thiện môi trường, TS. Trọng cho rằng, tăng trưởng xanh là xu hướng tất yếu ngành chăn nuôi phải hướng đến.
Chưa nên đưa lĩnh vực chăn nuôi vào diện phải kiểm kê khí nhà kính
Phó Chủ tịch Hiệp hội Trang trại và Doanh nghiệp Nông nghiệp Việt Nam tiếp tục thông tin, việc kiểm soát môi trường và khí phát thải chăn nuôi của Việt Nam là những vấn đề lớn và còn nhiều bất cập, do Việt Nam thuộc tốp những nước có mật độ chăn nuôi lớn nhất trên thế giới.
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có diện tích tự nhiên đứng thứ 66 thế giới, nhưng có số đầu lợn đứng thứ 6 và đàn thủy cầm đứng thứ 2 thế giới… quy mô chăn nuôi nhỏ chiếm tỷ lệ cao; công nghệ xử lý chất thải tuy nhiều nhưng chưa hoàn thiện và phù hợp, nhất là ở các cơ sở chăn nuôi vừa và nhỏ đang chiếm tỷ lệ lớn trong sản xuất. Hiện tại, đối với đàn vật nuôi ở Việt Nam, thịt lợn đang chiếm khoảng 62%, thịt gia cầm chiếm khoảng 28-29%, còn gia súc ăn cỏ chiếm trên 8%.
Theo số liệu thống kê năm 2022, Việt Nam có khoảng 8 triệu con trâu bò, 24,7 triệu con lợn và 380 triệu con gia cầm (GSO 2018-2023). Theo Chiến lược chăn nuôi được phê duyệt, năm 2030 Việt Nam sẽ có khoảng 10 triệu trâu bò, 30 triệu lợn và khoảng 670 triệu con gia cầm.
Kết quả kiểm kê khí nhà kính cho thấy ngành chăn nuôi hàng năm thải ra khoảng 18,5 triệu tấn CO2e, chiếm 19% lượng phát thải trong nông nghiệp. Có 2 loại khí nhà kính (KNK) chủ yếu được phát thải từ chăn nuôi là khí mê tan (CH4) và khí Ôxít Nitơ (N2O). Theo tính toán của các nhà khoa học, 1 tấn khí CH4 gây hiệu ứng khí nhà kính tương đương với 28 tấn CO2 và 1 tấn khí N2O gây hiệu ứng khí nhà kính tương đương với 265 tấn CO2.
Phát thải KNK từ chăn nuôi bao gồm 2 nguồn chính: Đó là khí CH4 từ dạ cỏ của động vật nhai lại và khí CH4, N2O từ phân động vật.
TS. Nguyễn Đức Trọng cũng chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến phát thải trong chăn nuôi như điện và năng lượng, quá trình hô hấp, tiêu hóa, chất thải của vật nuôi,… một số công nghệ áp dụng trong kiểm soát khí phát thải chăn nuôi như: Công nghệ và thiết bị kiểm soát chỉ số các bon trong các nhà máy chế biến TACN và chuồng trại cũng bắt đầu được khuyến cáo trong sản xuất ở VN; xử lý chất thải chăn nuôi bằng công nghệ biogas, đệm lót sinh học nhằm giảm ô nhiễm môi trường và giảm khí phát thải nhà kính;…
Cùng với đó, TS Trọng cũng thông tin về những quy định của pháp luật và chính sách quản lý trong lĩnh vực chăn nuôi như: Luật Chăn nuôi, Luật Bảo vệ Môi trường, một số nghị định và quyết định trong giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozon…
Ông Trọng cũng cho rằng, vấn đề trên cần phải được danh nghiệp, người chăn nuôi tự giác và chủ động thực hiện. Đồng thời, đây là vấn đề đòi hỏi công nghệ phù hợp và chi phí lớn, rất cần Nhà nước có chính sách hỗ trợ về đất đai cho chăn nuôi tập trung, tuyên truyền nâng cao nhận thức, phổ biến công nghệ phù hợp cho các loại hình chăn nuôi và có tín dụng ưu đãi cho người chăn nuôi vay đầu tư áp dụng công nghệ phù hợp, hiệu quả.
Bên cạnh đó, vì đây là vấn đề mới và lĩnh vực chăn nuôi trong nước đang còn gặp khó khăn, ông Trọng kiến nghị Nhà nước chưa nên đưa lĩnh vực chăn nuôi vào diện phải kiểm kê khí nhà kính, mà trước mắt trong giai đoạn từ nay đến hết năm 2026, chỉ nên áp dụng hình thức khuyến khích các cơ sở chăn nuôi thực hiện việc kiểm kê và kiểm soát khí phát thải trong chăn nuôi.
Cuối cùng, trong thời gian này, TS. Trọng cho hay: Chúng ta cần tăng cường các hoạt động tuyên truyền, đào tạo cán bộ kỹ thuật chuyên môn, hoàn thiện các công nghệ, chính sách để nâng cao năng lực quản lý và ứng dụng các công nghệ trong xử lý chất thải, kiểm kê và kiểm soát khí nhà kính trong chăn nuôi, đảm bào đến khi Nhà nước đưa các cơ sở chăn nuôi vào diện phải kiểm kê khí nhà kính, thì mọi yếu tố đã được chuẩn bị sẵn sàng.
Kinh nghiệm từ các nước trên thế giới
Cùng chia sẻ về vấn đề này, TS.Tống Xuân Chinh – Phó Cục trưởng Cục Chăn nuôi cho rằng, hiện trên thế giới, các nước có ngành chăn nuôi phát triển phải kể đến như các nước Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc, Newzeland,… Đây là những nước có lợi thế hơn Việt Nam nhiều.
Bởi, họ có những cánh đồng cỏ lớn, họ quan tâm giảm phát thải CH4 nên các lĩnh vực chăn nuôi như bò, dê, cừu cũng phát triển lớn. Thậm chí, có những nước, đàn dê, cừu còn lớn hơn cả dân số của họ. Với nhiều nước, chăn nuôi là nơi họ tập trung các giải pháp giảm phát thải CH4.
Hiện có rất nhiều công nghệ để chăn nuôi giải phát thải như sử dụng chế phẩm vi sinh, a xít hữu cơ, cân bằng vi sinh trong cỏ, giảm CH4 xuống, tăng hiệu qủa chăn nuôi lên.
Ngoài ra, các nước Bắc Âu họ còn quay lại một giải pháp chăn nuôi mà cha ông ngày xưa vẫn làm nhưng có áp dụng thêm các giải pháp tiên tiến là trồng trọt gắn liền chăn nuôi mà ta hay gọi là chăn nuôi tuần hoàn, sinh thái, hữu cơ…
Với Việt Nam, ta thấy chăn nuôi tuần hoàn hữu cơ, tăng trưởng xanh của ta hiện mới đang ở giai đoạn tiếp cận nên còn cần phải hoàn thiện nhiều thứ từ cơ chế chính sách quy trình để người nông dân tiếp cận tốt hơn. Qua đó giúp bà con vừa xử lý được chất thải, vừa tận dụng được tài nguyên chất thải để quay vòng phục vụ trong chăn nuôi, trồng trọt… gia tăng thêm giá trị, thu nhập.
Bên cạnh đó, người tiêu dùng mua sản phẩm hữu cơ, sinh thái thì phải bỏ tiền cao hơn, nên truy xuất nguồn gốc, nhãn mác sản phẩm để người tiêu dùng bỏ tiền nhiều hơn cũng là góp một phần bảo vệ môi trường.
“Muốn làm được những điều này, cần phải có sự phân biệt rõ để người tiêu dùng bình thường có thể biết sản phẩm này là hữu cơ, sản phẩm bình thường, đây là điều quan trọng để thúc đẩy các chăn nuôi bền vững hơn. Tăng cường chăn nuôi bền vững, thân thiện môi trường và nâng cao giá trị sản phẩm chăn nuôi”, ông Tống Xuân Chinh thông tin.
Nguồn: https://danviet.vn/chuyen-gia-bay-cach-bien-hang-tram-trieu-tan-chat-thai-chan-nuoi-thanh-tai-nguyen-lam-giau-cho-nong-dan-20241022121922436.htm