Tuy nhiên, nhiều ý kiến đánh giá, đây chỉ là những “mảnh vỡ” của di sản và con đường để Chèo tàu được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vẫn còn nhiều việc phải làm…
Vốn cổ độc đáo đất Tân Hội
Chèo tàu là một hình thức diễn xướng độc đáo, chỉ tìm thấy ở xã Tân Hội, huyện Đan Phượng, TP. Hà Nội. Hát Chèo tàu mang tính nghi lễ, nhằm tôn vinh Tướng quân Văn Dĩ Thành – vị Thành hoàng của 4 làng Thượng Hội, Thúy Hội, Vĩnh Kỳ và Phan Long thuộc tổng Gối ngày xưa. Ở vùng đất này, từ những người trẻ mới lớn đến những cụ già vẫn luôn giữ niềm đam mê với những làn điệu Chèo tàu mượt mà, sâu lắng.
Theo lệ xưa, hội Chèo tàu cứ 25 hoặc 30 năm mới được tổ chức một lần, vào những năm “phong đăng hòa cốc”, mưa thuận gió hòa, tuyệt đối không mở hội vào những năm mất mùa, đói kém. Việc tổ chức “thưa” như vậy được lý giải là do hội hát này phải huy động cả trăm người tham gia, tốn kém nhân lực, vật lực và thời gian diễn xướng tới 7 ngày liên tục, từ ngày Rằm đến 21 tháng Giêng. Thêm nữa, khi một trong bốn làng của hàng tổng không thống nhất thì hội cũng không thể mở. Vậy cho nên, có khi đến 50 – 60 năm hội hát mới được mở một lần. Kể từ lần mở hội đầu tiên năm 1683 đến lần gần đây nhất còn được ghi nhận là vào năm 1922. Thế rồi chiến tranh và nhiều lý do khác, mãi tới năm 1998, hội hát Chèo tàu mới được khôi phục lại.
Nét độc đáo của lối diễn xướng Chèo tàu chính là tất cả người tham gia, từ chúa tàu, ca nhi, quản tượng đều là nữ. Hát Chèo tàu không thể thiếu các đạo cụ là 2 chiếc thuyền rồng (tàu) và 2 ông voi (tượng), do đó, Chèo tàu còn có tên khác là hát tàu – tượng.
Từ trước ngày mở hội nửa năm, 4 làng trong hàng tổng phải phân chia nhau chuẩn bị đạo cụ, chọn người làm chúa tàu, cái tàu và 10 ca nhi. Trừ hai nữ chúa tàu tuổi từ 30 đến 50, các thành viên còn lại đều có độ tuổi từ 13 đến 16, có thanh, có sắc; trong đó hai quản tượng cũng là nữ đóng giả nam.
Nguồn tài liệu chính thức còn ghi lại, diễn xướng Chèo tàu bao giờ cũng diễn ra tại khu Đại dinh ở lăng Văn Sơn – địa điểm được cho là nơi chôn cất tướng quân Văn Dĩ Thành. Màn hát mở đầu bằng những bài lễ trình, dâng hương, dâng rượu để hầu Thánh. Sau đó là các màn hát “trạo” đối đáp giữa hai tàu – tượng và hát bỏ bộ. Lề lối trình tự này được lặp lại trong suốt 7 ngày hội, nhưng các bài hát có thay đổi cho từng ngày hay của riêng từng làng.
Đặc biệt, phần hát bỏ bộ trong diễn xướng Chèo tàu có thể tách ra hát riêng từng bài. Những bài hát bỏ bộ thường ngắn gọn, nội dung lời ca, âm nhạc tương đối hoàn chỉnh, độc lập. Đây là hình thức hát phong phú nhất, giàu tính nghệ thuật, được nhân dân hội đám ưa thích, hào hứng nhất.
Âm nhạc Chèo tàu ngoài việc chứa đựng những đặc trưng của dân ca cổ của người Việt với những nét phóng khoáng, mộc mạc, mềm mại và duyên dáng thì nó còn tiếp thu, giao thoa và cộng hưởng cùng các loại dân ca khác như hát Chèo, Quan họ, hát Xoan, hát Ca trù, hát Xẩm, hát Trống quân…
Cần tiếp tục “tinh lọc” di sản
Theo nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết, điều đặc biệt là tất cả các bài hát của nghệ thuật Chèo tàu cho đến nay vẫn được giữ gìn nguyên vẹn lời ca cổ. Và trong những năm qua, xã đã mở được 8 khoá học, truyền dạy những làn điệu Chèo tàu cho trên 200 em. Đến nay, các em đều đảm nhiệm tốt việc diễn xướng trong lễ hội cũng như đi giao lưu, biểu diễn ở các nơi.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, để bảo tồn Chèo tàu một cách vững chắc còn cần nhiều hơn thế, bởi di sản này hiện vẫn đứng trước nhiều vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
Lệ xưa quy định, lễ hội Chèo tàu vài chục năm mới quay lại nên mỗi ca nhi chỉ có cơ hội một lần trong đời được tham gia hát. Cộng với việc truyền dạy đều theo lối truyền miệng trực tiếp, vậy nên, số người thông thuộc các làn điệu Chèo tàu không nhiều. Đặc biệt, sau vài chục năm gần đây bị gián đoạn, những người từng vào vai chúa tàu, cái tàu của kỳ hội hát năm 1922 đều đã mất, chỉ còn vài người đóng vai phụ, hoặc những cụ “nghe lỏm” và nhớ được một vài câu.
Năm 1988, phong trào hát Chèo tàu trở lại, những nghệ nhân “lớp đầu” như Ngô Thị Thu, Nguyễn Thị Tuyết… đã phải sưu tầm gom nhặt từng câu hát, tìm lại phong tục cổ và khôi phục được ít nhiều. Gần đây, địa phương tìm được thêm cuốn sách cổ “Tàu tượng ca khúc” do hậu duệ cụ Lý Hào còn giữ được. Cuốn sách dày mấy trăm trang, ghi lại rất nhiều lời cổ nhưng oái oăm thay, diễn xướng những lời ấy ở làn điệu nào thì không ai biết. Nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết kể, để khai thác nguồn tư liệu này, các chị đành phải vừa đọc, vừa mò mẫm ghép nhạc, thấy phù hợp với giai điệu nào thì ghép thành bài…
“Theo lời kể của các cụ, Chèo tàu có 360 làn điệu nhưng hiện nay chúng tôi chỉ lưu giữ chính xác về ngôn ngữ và cách hát khoảng 20 làn điệu và thường có 8 bài trình diễn, trong đó có các bài “Xe chỉ luồn kim”, “Cổ kiêu ba ngấn”, “Răng đen hạt đậu”… – nghệ nhân Nguyễn Thị Tuyết nói.
Vấn đề khác cũng rất quan trọng là việc phục dựng hát Chèo tàu để làm sao gần nhất với hình thức nguyên bản. Một người con của quê hương Tân Hội là nghệ nhân Ðông Sinh Nhật lúc sinh thời từng lo ngại điệu hát cổ này bị biến tướng, cách tân vô lối. Ông cho rằng, thật khó để phục dựng Chèo tàu và tổ chức lễ hội hát Chèo tàu một cách bài bản như xưa, nếu không muốn nói là có thể lệch chuẩn, dù đã có thêm nhiều tư liệu.
Trao đổi với NB&CL bên lề lễ hội, GS sử học Lê Văn Lan cho biết, do bị “giãn cách” quá lâu, hát Chèo tàu đã bị một khoảng thời gian đứt đoạn rất dài nên việc khôi phục gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, nhờ những cuộc phỏng vấn, điều tra, hồi cố và tìm trong thư tịch, chúng ta đã chắp lại được một số những “mảnh vỡ”. So với kỳ lễ hội năm 2015, lễ hội Chèo tàu năm 2024 đã có tiến bộ rất nhiều, nhưng cũng “hiện đại hóa” khá nhiều cho nên cần phải tiếp tục tinh lọc, để có một lễ hội Chèo tàu gần nhất với nguyên bản.
“Chắc chắn là còn rất nhiều những mảnh vỡ khác chưa được chắp vào, đồng thời có nhiều mảnh vỡ ở nơi khác cũng được lắp ghép vào đây. Cho nên vấn đề là cần phải tinh lọc và phát triển thật cẩn thận, thật kỹ lưỡng để cuối cùng chúng ta có được một lễ hội gần như những giá trị cổ truyền của hát diễn xướng sử thi tàu – tượng ngày xưa” – GS Lê Văn Lan chia sẻ.
Được biết, hiện nay, địa phương đang phối hợp với các nhà nghiên cứu và các đơn vị chức năng xây dựng hồ sơ để đề nghị công nhận hát Chèo tàu là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Có lẽ, điều cần lưu ý lúc này là tất cả phải có một sự chuẩn bị thật chu đáo, kỹ lưỡng. Bởi năm 2001, hát Chèo tàu từng được đề cử Di sản văn hóa phi vật thể thế giới nhưng không thành, mà nguyên do là hồ sơ chuẩn bị quá sơ sài.
Thế Vũ