(MPI) – Trên đây là phát biểu của Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm tại Hội nghị Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc lần thứ tư diễn ra chiều ngày 18/12/2024. Hội nghị diễn ra dưới sự chủ trì của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc, Ủy viên Ban Chấp hành TW Đảng, Chủ tịch Hội đồng điều phối vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Tham dự Hội nghị có đại diện Lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành Trung ương và địa phương.
Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm phát biểu tại Hội nghị. Ảnh: MPI |
Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Đức Tâm cho biết, năm 2024, trong bối cảnh có nhiều khó khăn, thách thức, nhất là ảnh hưởng của cơn bão số 3 nhưng nhờ sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương, nỗ lực của Nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp , tình hình phát triển kinh tế – xã hội của Vùng đã khẳng định sự phục hồi rõ nét và đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Tăng trưởng GRDP của Vùng năm 2024 ước đạt 9,11%, cao nhất cả nước, một số địa phương có mức tăng trưởng khá cao như: Bắc Giang (cao nhất cả nước với mức tăng trưởng là 13,85%), Phú Thọ (9,53%), Tuyên Quang (9,04%). Quy mô GRDP theo giá hiện hành năm 2024 ước đạt khoảng hơn 1 triệu tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người của Vùng đạt khoảng 76 triệu đồng/người.
Cơ cấu GDRP chuyển dịch khá tích cực, cơ cấu ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm 80,9% GRDP của Vùng; Đóng góp của 2 ngành chiếm 8,7% điểm tăng trưởng GRDP của Vùng trong năm 2024.
Giải ngân 11 tháng vốn đầu tư công của Vùng đạt khá, 69% (cả nước bình quân 60%), đứng thứ 2 trong cả nước sau vùng Đồng bằng sông Cửu Long; toàn Vùng có 9/14 địa phương giải ngân vốn đầu tư công đạt trên mức bình quân cả nước.
Tỷ lệ nghèo đa chiều của Vùng năm 2024 giảm 3,1%, mạnh nhất trong 6 Vùng, đưa tỷ lệ hộ nghèo của Vùng xuống còn 15,1%; Số xã đạt chuẩn nông thôn mới của toàn Vùng là 1.043 xã, đạt tỷ lệ khoảng 51,8%.
Toàn Vùng duy trì được hơn 5,4 triệu ha rừng, tỷ lệ che phủ rừng đạt 54,04%, đạt mục tiêu Nghị quyết 11 và chỉ đứng sau vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ (54,23%).
Trên cơ sở đề xuất, kiến nghị của các địa phương, thông qua các đoàn công tác, ban chỉ đạo của Trung ương và của cả Hội đồng điều phối Vùng, trong năm 2024, nhiều cơ chế, chính sách đã được các Bộ, ngành tích cực nghiên cứu sửa đổi trình cấp có thẩm quyền phê duyệt như các Luật Đầu tư công, Luật sửa đổi 04 luật, Luật sửa đổi 7 Luật theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đơn giản hóa trình tự, thủ tục đúng tinh thần địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm. Một số kế hoạch, đề án lớn của Vùng đã được phê duyệt như Kế hoạch thực hiện Quy hoạch vùng Trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Đề án thí điểm xây dựng cửa khẩu thông minh tại cặp cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Việt Nam) – Hữu Nghị Quan (Trung Quốc). Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ 05 đề án phát triển cụm liên kết ngành, hạ tầng thương mại, tái cơ cấu ngành công nghiệp thương mại của Vùng và ký biên bản ghi nhớ với Bộ Thương mại Trung Quốc về thành lập nhóm công tác nghiên cứu các mô hình xây dựng Khu hợp tác kinh tế qua biên giới Việt Nam – Trung Quốc ….
Ngoài ra, 18 dự án trọng điểm của Vùng đã và đang triển khai thực hiện, một số dự án quy mô lớn đã khởi công, triển khai như: cao tốc Tuyên Quang – Hà Giang, cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh, cao tốc Hữu Nghị – Chi Lăng, Hòa Lạc – Hòa Bình – Mộc Châu; đang triển khai thủ tục đầu tư các dự án tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, cảng hàng không Sa Pa; Dự án nâng cấp tuyến vận tải thủy Việt Trì – Yên Bái – Lào Cai, cao tốc Chợ Mới – Bắc Kạn, cao tốc Bắc – Nam phía Tây đoạn Cổ Tiết – Chợ Bến …
Theo Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm, bên cạnh những kết quả đạt được, vùng Trung du và miền núi phía Bắc cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như kinh tế của Vùng tuy tăng trưởng khá nhưng quy mô kinh tế vùng còn nhỏ, chỉ chiếm 8% so với cả nước, 13/14 địa phương trong Vùng chưa tự cân đối thu chi ngân sách, mô hình tăng trưởng chưa thực sự bền vững, chưa dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ, chuyển đổi số; chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế (23,56% lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ; 39% lao động làm việc trong ngành nông nghiệp; 72% lao động có việc làm nhưng phi chính thức). Tỷ lệ hộ nghèo còn cao nhất so với các Vùng trong cả nước.
Hạ tầng giao thông kết nối vẫn là điểm nghẽn của Vùng, chưa kết nối được với Vùng Thủ đô, ra các cảng biển, đường sắt chưa kết nối được với Trung Quốc và ra quốc tế; Tiến độ thực hiện một số dự án trọng điểm của Vùng còn chậm, như tuyến Hòa Bình – Mộc Châu, điều chỉnh cao tốc Hà – Giang Tuyên Quang, hầm Hoàng Liên…;
Liên kết hợp tác phát triển Vùng còn hạn chế, chưa đi vào chiều sâu, còn mang tính hình thức, hiệu quả còn thấp, chưa tạo ra được chuỗi sản xuất, kinh doanh mang nét đặc trưng của vùng, nhất là trong phát triển du lịch; Hệ thống cơ sở dữ liệu vùng chưa được xây dựng;
Cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Vùng chưa được ban hành, một số nhiệm vụ, đề án cụ thể triển khai thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị và Nghị quyết của Chính phủ về phát triển Vùng còn chưa đáp ứng được tiến độ đề ra;
Về một số nội dung về hoạt động của Hội đồng Vùng, Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm cho biết, công tác điều phối Vùng năm 2024 đã đạt được một số kết quả nhất định, các địa phương đã gắn kết với nhau ngày càng chặt chẽ, nhiều hoạt động kết nối, xúc tiến, điều phối chung đã được triển khai. Một số hoạt động điều phối vùng bước đầu đã phát huy hiệu quả như hoạt động điều phối thực hiện một số tuyến cao tốc trọng điểm trên địa bàn như tuyến cao tốc Hà Nội – Hòa Bình – Mộc Châu, tuyến cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh; tỉnh Lào Cai đã chủ động đề xuất hợp tác 5 địa phương dọc cao tốc Nội Bài – Lào Cai hướng tới hợp tác với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc; các mô hình hợp tác du lịch giữa Cao Bằng và Trung Quốc, mô hình cửa khẩu thông minh tại Lạng Sơn đã triển khai đi vào cuộc sống.
Mặc dù vậy, một số nhiệm vụ đề ra trong kế hoạch hoạt động còn thực hiện chậm so với yêu cầu: đến nay đã cơ bản hoàn thành 8/17 nhiệm vụ; các nhiệm vụ đã được Bộ, ngành và địa phương trình Thủ tướng Chính phủ nhưng chưa được phê duyệt: Đề án xây dựng mô hình thư viện cơ sở phục vụ nhân dân miền núi, biên giới vùng Trung du miền núi phía Bắc giai đoạn 2025 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045; 05 Đề án của Bộ Công Thương về chính sách thương mại biên giới, cụm liên kết ngành Vùng trung du và miền núi phía Bắc, Đề án đưa Lào Cai trở thành trung tâm kết nối giao thương kinh tế giữa Việt Nam và các nước ASEAN với vùng Tây Nam Trung Quốc. Một số các nhiệm vụ chưa hoàn thành như xây dựng trung tâm chế biến nông nghiệp, lâm sản gỗ tại Sơn La, Tuyên Quang, báo cáo rà soát, đề xuất chính sách đặc thù Vùng.
Tại Nghị quyết số 96/NQ-CP Chính phủ về chương trình hành động triển khai Nghị quyết 11 của Bộ Chính trị đã đề ra 15/17 nhiệm vụ, đề án cần trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong các năm 2023, đến nay mới có 11 nhiệm vụ, đề án được hoàn thành, trình Thủ tướng Chính phủ; 4 nhiệm vụ chuyển sang tiếp tục thực hiện trong năm 2024.
Về một số dự án trọng điểm, có tính chất kết nối vùng, Thứ trưởng nhấn mạnh, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có báo cáo chi tiết từng dự án liên kết vùng và đề nghị các Bộ, địa phương tiếp tục sớm hoàn thiện thủ tục đầu tư và đẩy nhanh tiến độ các dự án đang thi công, đã được bố trí vốn. Trong đó, về việc tổ chức triển khai Tuyến đường cao tốc Hà Nội – Hòa Bình – Mộc Châu (Sơn La), đây là một tuyến đường liên kết vùng vô cùng huyết mạch của Vùng Tây Bắc nhằm phá vỡ thế độc đạo của Quốc lộ 6, tạo không gian phát triển kết nối với Thủ đô Hà Nội, tạo tiền đề để tiếp tục triển khai toàn tuyến cao tốc kết nối cửa khẩu Tây Trang, Điện Biên theo quy hoạch.
Tuyến cao tốc này hiện nay đang triển khai thực hiện theo 4 dự án độc lập, cụ thể: Tuyến Hòa Lạc – Hòa Bình trên địa bàn của Hà Nội và Hòa Bình; Tuyến Hòa Bình – Mộc Châu (km0-km19) trên địa bàn tỉnh Hòa Bình; Tuyến Hòa Bình – Mộc Châu (km19-km53) trên địa bàn tỉnh Hòa Bình;Tuyến Hòa Bình – Mộc Châu trên địa bàn tỉnh Sơn La.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất, các địa phương cần chủ động, phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành Trung ương triển khai 04 nội dung sau: (1) Khẩn trương phê duyệt, điều chỉnh các dự án thành phần, tổ chức lựa chọn nhà thầu thi công để sớm khởi công trong năm 2025 (2) Bố trí đủ vốn ngân sách địa phương theo cam kết và tiến độ trong năm 2025, không để thiếu vốn, gây chậm tiến độ; Rà soát, đề xuất bố trí vốn đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn 2026-2030 để tiếp tục hoàn thành dự án (3) Tổ chức thực hiện dự án bảo đảm chất lượng, đúng tiến độ; (4) Nghiên cứu phương án hoàn thiện các dự án theo quy mô hoàn chỉnh theo quy hoạch để thực hiện.
Toàn cảnh Hội nghị. Ảnh: MPI |
Về một số đề xuất, kiến nghị, Thứ trưởng Nguyễn Đức Tâm nêu rõ, trên cơ sở các kết quả đạt được trong năm qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đề xuất một số nội dung, giải pháp triển khai thực hiện trong thời gian tới như cần xác định công tác điều phối thực hiện các dự án vùng, liên vùng, là nhiệm vụ trọng tâm để tập trung chỉ đạo, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để hoàn thành các dự án đúng tiến độ. Các Bộ, ngành, địa phương khẩn trương hoàn thành các nhiệm vụ được giao tại kế hoạch hoạt động năm 2024 của Hội đồng điều phối vùng và đề xuất các chuyên đề để triển khai liên kết vùng thực hiện trong 2025.
Triển khai, phối hợp tổ chức thực hiện tốt Quy hoạch Vùng, trong đó tập trung nguồn lực thực hiện 04 nhiệm vụ trong tâm, đột phá đã đặt ra tại Quy hoạch; Chủ động xây dựng các nhiệm vụ, đề án trọng tâm đưa vào Báo cáo chính trị phục vụ Đại hội Đảng bộ tỉnh và đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội giai đoạn 2026-2030 để tổ chức thực hiện.
Tiếp tục rà soát, đẩy mạnh công tác xây dựng thể chế, cơ chế, chính sách, rà soát các quy định của pháp luật để kịp thời bổ sung, điều chỉnh, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động phát triển và điều phối vùng; lựa chọn vấn đề đề xuất Hội đồng điều phối Vùng cho ý kiến; đồng thời nghiên cứu, rà soát các cơ chế, chính sách đặc thù phát triển vùng.
Các Bộ, ngành và các địa phương nghiên cứu, lựa chọn các dự án vùng và có tính chất vùng quan trọng, cấp bách để ưu tiên nguồn vốn bố trí trong kế hoạch trung hạn 2026-2030. Các địa phương cần tập trung nguồn lực cùng với nguồn ngân sách trung ương ưu tiên bố trí cho các dự án để tăng tốc, bứt phá, tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng liên kết vùng trong giai đoạn tới; phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải để khởi công tuyến đường sắt Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng dự kiến trong năm 2026.
Các Bộ, địa phương tập trung giải ngân số vốn đầu tư công đã được giao trong năm 2024 và năm 2025, quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt và chuẩn bị triển khai 33 dự án quan trọng, liên kết vùng đã được Bộ Chính trị và Chính phủ chỉ đạo trong các Nghị quyết về phát triển Vùng; thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các Tổ công tác của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ rà soát, đề xuất tháo gỡ ngay các khó khăn để hoàn thành đúng tiến độ./.