So với nghề dệt truyền thống của các dân tộc khác, nghề dệt truyền thống của dân tộc Tày, Nùng ở Hạ Lang có nét đẹp độc đáo riêng biệt, mang nhiều giá trị văn hóa dân tộc đặc sắc và còn lưu truyền trong nhiều gia đình.
Nghề dệt truyền thống của dân tộc Tày, Nùng ở Hạ Lang có từ lâu đời, đây được xem là tiêu chuẩn để đánh giá phẩm hạnh, sự khéo léo của người phụ nữ ngày xưa.
Phụ nữ Tày, Nùng ở Hạ Lang thường dệt vải vào tháng 6 – 7 âm lịch hằng năm. Tranh thủ mùa nông nhàn, các bà, các mẹ lại ngồi vào khung cửi. Từ tơ tằm, người phụ nữ nơi đây dệt nên những tấm vải đầy màu sắc, với những sợi tơ nhuộm màu khác nhau, tùy vào sở thích người thợ tạo nên những sản phẩm trông thật bắt mắt. Những họa tiết thổ cẩm trang trí vỏ chăn, địu trẻ em được dệt bằng những sợi len với nhiều hoa văn sặc sỡ. Chị Mã Thị Kim Anh, xóm Nà Vị, xã Minh Long cho biết: Trước đây, mỗi nhà đều có ít nhất một khung cửi, con gái mới lớn trước khi lấy chồng đều tự dệt quần áo, chăn màn mang theo khi về nhà chồng. Hiện nay, trong xóm chỉ còn có 10 hộ duy trì nghề dệt truyền thống. Song, mỗi gia đình đều có sẵn những bộ quần áo chàm, chăn màn truyền thống để khi có dịp quan trọng như cưới xin, ma chay sẽ mang ra sử dụng.
Nguyên liệu dệt vải chính của người Tày, Nùng ở Hạ Lang là từ cây bông và tơ tằm. Thông thường vải trơn sẽ được làm từ cây bông, trải qua nhiều công đoạn công phu như: trồng bông, thu hoạch, tách hạt, kéo sợi rồi mới dệt thành sản phẩm. Bông sau khi thu hái về nhà sau tách hạt ra khỏi bông, được các bà, các mẹ làm tơi ra rồi đem cuốn thành từng cuộn nhỏ. Tiếp đó đến công đoạn se sợi được xem là công đoạn khó nhất, đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mẩn. Để kéo được những sợi chỉ dài, đều nhau, không bị đứt đoạn, các sợi bông sau khi được kéo thành sợi sẽ được cuộn thành từng cuộn luộc với bột gạo và đem phơi khô rồi cuộn thành cuộn chỉ nhỏ. Các cuộn chỉ được lồng vào khung gỗ để kéo xếp vào khuôn.
Loại thứ hai được làm từ tơ tằm. Thông thường vào tháng 2 âm lịch, người dân bắt đầu nuôi tằm. Thức ăn chính của tằm là cây dâu tằm, mỗi ngày tằm thường sẽ ăn 7 bữa, mỗi bữa cách nhau 3 giờ. Một lứa nuôi trong vòng 20 ngày tằm sẽ vào kén và nhả tơ, đây là nguyên liệu để dệt vải. Kén có màu trắng và màu vàng phụ thuộc vào sắc tố tự nhiên mà tằm hấp thụ được trong quá trình ăn lá dâu. Từ kén se thành các sợi tơ và sẽ được bó lại xếp thành khuôn.
Để xếp chỉ vào khuôn, cả hai loại tơ tằm và sợi bông, người Tày, Nùng ở Hạ Lang sử dụng cột nhà to và nhẵn bóng để làm khuôn. Các sợi chỉ được kéo 11 vòng quanh 3 cột nhà, phần đầu của các sợi chỉ được những người phụ nữ tỉ mẩn gắp từng sợi luồn qua một tấm phên mỏng, có răng đều. Để cuốn chỉ vào thanh, một người sẽ phải cõng các vòng chỉ, những người còn lại sẽ cùng nhau rải các sợi chỉ, sử dụng lược để trải ra thật đều, người cõng chỉ phải cuốn thật chắc tay, nối lại các sợi chỉ bị đứt và xếp lại. Các cuộn chỉ sau khi được xếp thành từng cuộn sẽ được dệt thành sản phẩm.
Trước khi may thành những bộ quần áo, những tấm vải sợi bông sẽ được mang đi nhuộm chàm. Để nhuộm vải chàm cũng cần trải qua nhiều bước công phu. Cây chàm trồng vào tháng 3, đến cuối tháng 6 – 7 âm lịch thì cho thu hoạch. Cây chàm sau khi thu hoạch lấy về rửa sạch rồi cho vào chum ngâm với nước suối cho đến khi sóng sánh màu xanh chờ cặn lắng xuống thì vớt cây ra, sau đó tiếp tục hòa với vôi trong, để lắng thêm 1 – 2 ngày rồi lọc phần nước đục dưới đáy cho ra bột chàm. Vải sẽ được luộc lên, phơi khô, sau đó nhúng vải vào thùng chàm để nhuộm. Tiếp tục giặt vải với nước sạch, phơi và nhuộm lại nhiều lần cho đến khi lên màu ưng ý.
Trải qua bao thế hệ, từ bàn tay khéo léo của người phụ nữ, đến nay nghề dệt truyền thống của dân tộc Tày, Nùng ở Hạ Lang vẫn được gìn giữ. Đây là nét văn hóa độc đáo và đặc sắc, luôn gắn bó trong đời sống sinh hoạt, văn hóa của người dân nơi đây.
Mai Chi