Dân ca Tày tuy rất giàu chất trữ tình, đắm say nhưng nhiều khi cũng khá “tỉnh táo”, ít nhiều có tính chất trí tuệ, bác học. Đó là những dấu hiệu về sự xâm nhập lẫn nhau giữa văn học dân gian truyền miệng với văn học thành văn, về sự giao lưu giữa văn học dân gian dân tộc Tày với nền văn học chung của cả nước. Sự giao lưu đó không những xuất hiện ở dân ca giao duyên mà cả ở các thể loại khác như truyện cổ, truyện thơ.
Chất lý trí trong dân ca giao duyên Tày nhiều khi được đẩy đến mức cao, qua lời ca có khi ta thấy lời dặn dò, thề nguyền với nhau có tính toán cặn kẽ, có kế hoạch chi li, nhìn rất xa về sau: Nếu mười phần không lấy được nhau/Ta cùng rủ nhau đi ăn thề/Đồng tiền bổ đôi, người một nửa/Cất kỹ trong túi đeo trong người/Ngày sau tim ta nó bội phản/Ta hãy sỉ vả, ta rủa nguyền.
Tính chất lý trí trong dân ca trữ tình của người Tày không chỉ thể hiện ở những nội dung cụ thể của từng lời hát mà còn thể hiện ở các loại bài hát có tính chất đua tài, đua trí khá phổ biến. Điều đó thể hiện rõ nhất ở các bài lượn đố, lượn truyện, như các bài lượn đố chữ thường gặp: Nhân tềnh, nhất khẩu hợp pền tối/Bày cạ sloong hàng bạn túc mai… Có nghĩa là: Nhân trên, nhất khẩu hợp thành đôi/Bày đặt hai hàng bạn trúc mai… (chữ “hợp” gồm các chữ “nhân”, “nhất”, “khẩu” ghép thành)… Hoặc các bài lượn truyện Nhị độ mai, Phạm Tải – Ngọc Hoa được tác giả dân gian Tày xem như các “tủ” quý của mình, mượn tích các truyện Nôm Việt để đặt thành bài hát đối đáp nam, nữ: Thấy anh như con trai quan chúa/Em như Phạm Tải đi ăn xin… Loại thơ tình (phong slư) viết trên vải, trên lụa trao đổi giữa đôi bạn tình, trong đó tác giả dùng nhiều từ Hán – Việt hoặc nhiều điển tích: Xuân thiên tiết vằn thâng bươn cẩu/Các bách điểu nộc nu vui mừng (Trời tiết xuân chuyển đến tháng chín/Trăm thứ chim muông vui mừng). Các từ “xuân thiên”, “bách điểu”, “vui mừng” đều được viết bằng từ Hán và Việt trong nguyên văn. Những loại bài hát đố chữ, hát truyện, thơ phong slư tuy thuộc thể loại dân ca trữ tình nhưng lại mang tính chất trí tuệ khá rõ, trong đó các tác giả sử dụng các biện pháp sáng tác có tính chất cầu kỳ, gần gũi với văn chương bác học hơn là văn học dân gian như các loại dân ca trữ tình khác với ngôn ngữ bình dị, hồn nhiên hơn.
Trong dân ca, ngôn ngữ nhiều khi tinh tế nhưng thường mộc mạc, bình dị, gần gũi với ngôn ngữ thường ngày của nhân dân. Còn trong truyện thơ, bên cạnh ngôn ngữ bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân, phần nhiều các tác giả có sự gia công trau chuốt lời văn, thích dùng những công thức, những điển cố trong kho văn liệu văn học cổ điển Trung Quốc, những điển tích mượn ở thơ văn thời Tấn, thời Đường, như: Ngư phủ ý say mê Đào động/Bạch Đế thuyền vượt sóng Giang Lăng. (Trần Châu, Truyện thơ Tày – Nùng).
Câu trên lấy ở tích “ngư phủ lạc Đào nguyên” trong bài phú “Đào hoa nguyên kí” của nhà thơ Đào Tiềm. Câu dưới dẫn ý từ hai câu thơ Đường: Triêu từ Bạch Đế thái vân gian/Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn (có nghĩa là: Buổi sớm giã từ thành Bạch Đế trong mây đẹp, trong một ngày về tới đất Giang Lăng xa ngàn dặm).
Nhiều khi tác giả dùng cả những câu ví bằng từ Hán Việt để diễn đạt một ý nghĩ hoặc tình cảm nào đó, như để tỏ ra mình tuy là một nho sĩ nghèo nhưng trong sạch, không phải là kẻ hám tiền, hám của, nhân vật Lưu Đài nói chữ: Câu ví rằng nhân tham tài nhi tử/Điểu tham thực viễn xứ nhi vong (Lưu Đài – Hán Xuân, Truyện thơ Tày – Nùng). Hoặc để tỏ lòng nhún nhường của Lưu Đài trước người yêu, tác giả cho nhân vật mượn tích của nhà thơ Đào Tiềm để nói hộ cho mình: Tạm học đạo thánh nhân đôi chữ/Cóc đâu mong ngư phủ Đào nguyên. Hơn nữa, cùng với các nhân vật trong tác phẩm, nhân vật tác giả bắt đầu xuất hiện trong truyện thơ, qua những câu thơ mở đầu có tính chất xưng danh như: Cầm bút chép câu chuyện truyền về/Đính Quân chuyện ngày xưa nước Sở…
Thông thường, khi nói đến đạo lý, đến cương thường, ngôn ngữ truyện thơ được diễn đạt theo phong cách trang trọng, cầu kỳ với những thành ngữ, công thức Hán Việt có tính chất bác học. Như khi nói về mối quan hệ vợ chồng, lời thơ ở truyện Lưu Đài – Hán Xuân viết: Lời ví xưa đã nói có câu/Nữ xuất giá tòng phu thường lệ. Hoặc khi nói về mối quan hệ mẹ con một cách bình thường giản dị trong phạm vi gia đình, tác giả truyện thơ cũng “sính” dùng thứ ngôn ngữ trang trọng ấy: Làm người phải khôn khéo mọi điều/Quân tử nhi trung tiêu biệt trọng…
Về mặt nghệ thuật, thơ ca dân gian Tày có sự tiếp cận với đặc điểm thi pháp của văn học bác học, một mặt kế thừa, phát triển truyền thống tự sự và trữ tình, một mặt tiếp thu ảnh hưởng của nền văn hóa bác học và đặc biệt là của văn học bác học Việt. Từ những sự kế thừa và chịu ảnh hưởng về nhiều mặt đó, các nghệ nhân dân gian và các trí thức dân tộc đã sáng tạo nên một thể loại văn học dân gian với nội dung bề thế về mặt dung lượng, với nghệ thuật được trau chuốt và hoàn thiện hơn.
Xuân Thương