Đại tướng Võ Nguyên Giáp có tên khai sinh Võ Giáp, bí danh là Văn, sinh ngày 25/8/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu lòng yêu nước. Xuất thân từ một nhà giáo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trở thành một nhà cầm quân kỳ tài, một tầm cao tư duy về nghệ thuật chiến tranh Nhân dân của dân tộc với cốt cách, đức độ của bậc hiền nhân được khắc sâu trong tâm khảm của dân tộc Việt Nam và bè bạn năm châu.
Sinh ra từ vùng quê giàu truyền thống yêu nước, trực tiếp chứng kiến cảnh đồng bào bị bè lũ thực dân và tay sai đàn áp, bóc lột đã nung nấu trong đồng chí Võ Nguyên Giáp ý chí sôi sục và quyết tâm đứng lên đấu tranh giành lại độc lập cho dân tộc. Năm 1925, khi còn là học sinh, do sớm được tiếp thu tư tưởng cách mạng của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Võ Nguyên Giáp đã tích cực tham gia phong trào đấu tranh, bãi khóa ở Trường Quốc học Huế; tham gia Đảng Tân Việt cách mạng; tham gia phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh, bị thực dân Pháp bắt giữ và bị giam ở nhà lao Thừa Phủ, Huế. Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế đỏ của Pháp, đồng chí được trả tự do. Khi ra tù, mất liên lạc với tổ chức, đồng chí ra Hà Nội dạy học ở Trường tư thục Thăng Long, viết báo tuyên truyền xây dựng cơ sở cách mạng trong thanh niên, học sinh, đồng thời tiếp tục học Đại học Luật và Kinh tế.
Tháng 6/1940, đồng chí Võ Nguyên Giáp được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó được cử sang Trung Quốc gặp Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Tháng 12/1944, đồng chí được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân – Đội quân chủ lực đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam. Từ tháng 5/1945, đồng chí là Tư lệnh các lực lượng vũ trang cách mạng mới, thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân; Tháng 1/1948, đồng chí được phong quân hàm Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và được Ban Chấp hành Trung ương bầu vào Bộ Chính trị. Từ tháng 9/1955 đến tháng 12/1979, đồng chí là Phó Thủ tướng, kiêm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Từ tháng 1/1980, đồng chí là Phó Thủ tướng Thường trực; từ tháng 4/1981 đến tháng 12/1986, là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ). Đồng chí liên tục được bầu làm Đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII.
“Dù trong lúc cách mạng gặp thuận lợi hay khó khăn, đồng chí luôn tuyệt đối tin tưởng, thủy chung, son sắt với Đảng, với nhân dân, đúng như lúc sinh thời đồng chí đã từng nói: “Tôi sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó”. Đồng chí luôn ghi nhớ, noi gương và mẫu mực thực hành lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Làm cách mạng là phải “Dĩ công vi thượng”, nghĩa là phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết, coi đó làm phương châm sống và phấn đấu trong suốt cuộc đời”. (Trích diễn văn do Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trình bày tại lễ kỷ niệm 110 năm Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp).
Trong cuộc đời binh nghiệp, dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, với cương vị Tổng tư lệnh Quân đội kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, đồng chí đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống thực dân Pháp xâm lược (1945 – 1954) giành thắng lợi. Với vai trò là Tổng Tư lệnh chiến dịch, Bí thư Đảng ủy, đồng chí đã chỉ huy nhiều chiến dịch quan trọng, như: Chiến dịch Biên Giới, Trung Du, Đồng Bằng, Hòa Bình, Tây Bắc, Thượng Lào. Đặc biệt, năm 1954 được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng trao quyền trực tiếp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí đã chỉ huy các đại đoàn của quân đội và các lực lượng tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề của thực dân Pháp, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta làm nên Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, giải phóng hoàn toàn miền Bắc nước ta.
Hiệp định Giơnevơ ký kết chưa được bao lâu thì đế quốc Mỹ đã nhanh tay hất cẳng Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự Mỹ, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước ta. Trước tình hình cách mạng mới, đồng chí đã cùng Trung ương Đảng lãnh đạo toàn dân, toàn quân tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa và đẩy mạnh cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân ở miền Nam, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ xâm lược, làm nên những thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thu non sông về một mối, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đất nước hòa bình, thống nhất, trên cương vị là Bí thư Quân ủy Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã cùng tập thể lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Năm 1980, đồng chí thôi giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị và Phó Thủ tướng phụ trách khoa học – kỹ thuật. Đồng chí nghỉ hưu ở tuổi 80 cho đến lúc từ trần vẫn không ngừng đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong cuộc đời Đại tướng Võ Nguyên Giáp, mọi người nói đến Đại tướng không chỉ là một danh tướng, một nhà chính trị, nhà quân sự kiệt xuất, mà còn là một “cây đại thụ rợp bóng nhân văn”. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới ca ngợi Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị tướng nhân văn, bởi với ông chiến thắng không phải là giành lấy bằng mọi giá, mà phải luôn đi liền với việc giảm đến mức thấp nhất hy sinh xương máu của bộ đội. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo từng nói “Đấy là trái tim anh Văn! Đấy là cách đánh và cách tiến công nhân văn chủ nghĩa của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp”. Nhiều đêm ông thao thức, nước mắt ướt đầm vì được tin một chiến dịch nào đó máu chiến sĩ đổ quá nhiều, mà chiến thắng thì chưa tương xứng. Đỉnh cao của tư tưởng quân sự nhân văn, nhân đạo và hòa bình trong con người Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn thể hiện ở quan điểm tránh “tiêu diệt sạch sành sanh, đánh đến tên giặc cuối cùng”. Chính vì lẽ đó mà nhiều người từng một thời đứng bên kia chiến tuyến, từ những tướng lĩnh của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đến những người lính đánh thuê… đều dành cho ông sự kính trọng và khâm phục đặc biệt. Ở Đại tướng luôn sáng ngời tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đặc biệt là đạo làm tướng mà Bác Hồ đã chỉ ra: “Trí, Dũng, Nhân, Tín, Liêm, Trung” luôn được ông thực hiện đầy đủ, trọn vẹn. Trong suốt cuộc đời, Đại tướng luôn đặt lợi ích của quốc gia dân tộc, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, như sinh thời ông đã bộc bạch: “Sống ngày nào, cũng là vì đất nước ngày đó”. Kỷ niệm 112 năm ngày sinh của Đại tướng, nhân dân Việt Nam và bạn bè trên thế giới nhớ về Đại tướng: Vị tướng kiệt xuất với trái tim nhân hậu.