Bình Định nằm ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, trong Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung. Bình Định có diện tích tự nhiên là 6.071,3km2; dân số năm 2019 là 1.487.900 người; gồm 09 huyện, 02 thị xã và Tp. Quy Nhơn. Thành phố Quy Nhơn là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định (được công nhận theo Quyết định số 159/QĐ-TTg ngày 25/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ).
Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc – Nam Việt Nam, đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn. Ngoài lợi thế này, Bình Định còn có nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú và nguồn nhân lực khá dồi dào. Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (theo Quyết định số 54/2009/QĐ-TTg ngày 14/4/2009), Bình Định được xác định sẽ phấn đấu trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế – xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh và quốc phòng luôn bảo đảm.
Hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường hàng không và đường biển khá thuận lợi. Quốc lộ 1 đoạn qua Bình Định dài 118 km, Quốc lộ 1D đoạn qua Bình Định dài 20,7 km, Quốc lộ 19 qua Bình Định dài 69,5 km, ngoài ra còn có Quốc lộ 19B, Quốc lộ 19C, hệ thống đường tỉnh (tổng chiều dài 506 km), đường huyện và đường nông thôn; lưu lượng xe trung bình ngày đêm khoảng 2.500-2.700 xe. Quốc lộ 19 nối liền cảng biển quốc tế Quy Nhơn với các tỉnh thuộc khu vực vùng Bắc Tây Nguyên qua các cửa khẩu quốc tế Đức Cơ, Bờ Y và vùng 3 biên giới Việt Nam- Lào- Campuchia, là một trong những con đường trong hệ thống trục ngang ở miền Trung Việt Nam hiện nay, tạo điều kiện liên kết Đông – Tây, thúc đẩy giao lưu kinh tế, hợp tác phát triển với bên ngoài. Hiện nay tỉnh đang triển khai đầu tư tuyến đường Sân bay Phù Cát – Khu Kinh tế Nhơn Hội, Canh Vinh (Vân Canh) – Quy Nhơn, tuyến đường Quốc lộ 19 mới, tuyến đường ven biển tạo điều kiện kết nối các vùng, khu kinh tế. Sân bay Phù Cát cách Tp. Quy Nhơn 30 km về phía Tây Bắc, có đường băng rộng 45 mét dài 3.050 mét. Tuyến Quy Nhơn – Thành phố Hồ Chí Minh, Quy Nhơn – Hà Nội và ngược lại có các chuyến bay của Vietnam Airlines, Vietjet Air, Jetstar Pacific, Bamboo airways. Nhà ga hàng không Phù Cát đã được nâng cấp với công suất trên 1,5 triệu hành khách/giờ. Đường sắt Bắc – Nam đi qua Bình Định dài 148 km gồm 11 ga, trong đó ga Diêu Trì là ga lớn, là đầu mối của tất cả các loại tàu trên tuyến đường sắt. Ngoài các chuyến tàu Bắc- Nam còn các chuyến tàu nhanh từ Quy Nhơn đi vào các tỉnh khu vực Nam Trung bộ đến TP Hồ Chí Minh và đi ra đến Nghệ An.
Bình Định có cảng biển quốc tế Quy Nhơn, cảng Thị Nại và Tân cảng Miền Trung, trong đó cảng biển quốc tế Quy Nhơn có khả năng đón tàu tải trọng từ 5 vạn tấn, cách Phao số 0 khoảng 6 hải lý, cách hải phận quốc tế 150 hải lý. Lượng hàng qua Cảng Quy Nhơn năm 2018 đạt trên 8,2 triệu TTQ, phấn đấu đến năm 2020 đạt trên 10 triệu TTQ…
Bình Định là tỉnh có tiềm năng về kinh tế biển; với chiều dài bờ biển 134km; vùng lãnh hải 2.500km2, vùng đặc quyền kinh tế 40.000km2; có các cảng cá Nhơn Châu, Quy Nhơn, Tam Quan, Đề Gi và khu trú đậu tàu thuyền Tam Quan. Trong các cảng cá nêu trên có cảng cá Nhơn Châu là tốt nhất, có nguồn lợi hải sản phong phú, giá trị kinh tế cao như cá thu, cá ngừ đại dương, cá nục, cá trích, cá cơm, cá chuồn, tôm mực cùng các đặc sản quý hiếm (yến sào, cua huỳnh đế, hải sâm…). Tổng số tàu thuyền là gần 8.000 chiếc, phần lớn là các tàu thuyền đánh bắt xa bờ. Sản lượng hải sản khai thác hàng năm khoảng trên 100.000 tấn.
Tổng diện tích mặt nước khoảng 10.920ha (không kể 67.000ha mặt biển). Trong đó, đầm Thị Nại 5.060ha, đầm Đề Gi 1.600ha, vùng cửa sông Tam Quan 300ha và một số ao hồ nước ngọt… là điều kiện thuận lợi để phát triển nuôi trồng thủy sản. Hiện đã có 2.648 ha mặt nước nuôi tôm.
Bình Định có 04 sông lớn là sông Kôn, sông Lại Giang, sông La Tinh và sông Hà Thanh, hiện có khoảng 135 hồ tự nhiên và nhân tạo với tổng diện tích 38.000 ha chuyên dùng để cung cấp nước cho các loại cây trồng và nuôi trồng thủy sản. Hệ thống mạng lưới các sông suối tập trung nhiều ở miền núi tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thủy lợi và thủy điện; tổng trữ lượng nước khoảng 5,2 tỷ m3; tiềm năng thủy điện khoảng 182,4 triệu kW. Bình Định đã xây dựng và thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực tỉnh giai đoạn 2016 – 2025 có xét đến tới 2035 với mục tiêu đảm bảo sự phát triển cân đối hài hòa, đồng bộ giữa phát triển nguồn và lưới điện, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh (Quyết định số 3145/QĐ-UBND ngày 30/8/2017 của UBND tỉnh Bình Định). Những năm qua đã tranh thủ nguồn vốn WB đầu tư trung áp, hạ áp, đến nay 100% xã có điện lưới (trừ xã đảo Nhơn Châu đang xây dựng lưới điện bằng cáp ngầm vượt biển) và có trên 99% số hộ dùng điện. Thực hiện việc chuyển đổi mô hình, cấp phép hoạt động điện lực, vận hành lưới điện hạ thế an toàn, áp dụng nhiều biện pháp nhằm nâng cao chất lượng điện, giảm tổn thất điện năng, đảm bảo giá bán điện đến hộ dân nông thôn.
Nhà máy nước Quy Nhơn được đầu tư nâng cấp có tổng công suất 45.000 m3/ngày đêm (sẽ tiếp tục tăng lên 48.000 m3/ngày đêm), hiện nay đã cấp nước cho hơn 90% dân số và các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn TP Quy Nhơn và một phần Khu kinh tế Nhơn Hội. Công suất cấp nước cho Khu công nghiệp Phú Tài: 8.500 m3/ngày đêm. Đang xây dựng công trình cấp nước cho Khu kinh tế Nhơn Hội: 12.000 m3/ngày đêm (giai đoạn 1). Đang hoàn thiện dự án cấp nước cho 9 thị trấn trong tỉnh với công suất 21.300 m3/ngày đêm. Tỷ lệ dân cư sử dụng nước sạch đạt 79%, tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh đạt 98% (số liệu năm 2018).
Diện tích đất lâm nghiệp có rừng: 370.514 ha (số liệu năm 2017), trong đó rừng sản xuất 158.502 ha; mật độ che phủ rừng đạt 54% (số liệu năm 2018). Ngoài ra, dưới tán rừng còn có song mây, lá nón, bời lời, các loại lâm sản khác… là nguồn nguyên liệu phục vụ cho các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tiêu dùng… Ngoài ra, đất đồi núi chưa sử dụng trên 23.000 ha, có thể phát triển trồng rừng nguyên liệu hoặc trồng cây công nghiệp phục vụ cho công nghiệp chế biến lâm sản.
Về tiềm năng khoáng sản: Trên địa bàn tỉnh có nhiều loại khoáng sản quý hiếm như đá granite ước tính khoảng 700 triệu m3 (trong đó có các loại đá cao cấp như: Granosinite màu đỏ, Biotite hạt thể màu vàng… với trữ lượng khoảng 500 triệu m3 tập trung nhiều ở An Nhơn, Tuy Phước, Quy Nhơn…); quặng sa khoáng Titan trữ lượng khoảng 2,5 triệu tấn Ilmenite nằm dọc theo bờ biển (tập trung ở các huyện Phù Cát, Phù Mỹ và xã Nhơn Lý, thành phố Quy Nhơn). Các mỏ vàng tập trung phân bố ở các khu vực Vĩnh Kim, Vạn Hội, Kim Sơn, Tiên Thuận, trong đó mỏ Tiên Thuận được đánh giá là có tiềm năng lớn nhất; mỏ Bauxit Kon Hà Nừng thuộc trên địa bàn 02 tỉnh Bình Định và Gia Lai. Ngoài ra, còn có các mỏ cao lanh, đất sét (tập trung ở các huyện Phù Cát, Tuy Phước, Tây Sơn) trữ lượng đã thăm dò khoảng 24 triệu m3; đủ để phục vụ cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng (gạch ngói, gạch ceramic…) trên địa bàn tỉnh.
Bình Định có 5 điểm nước suối khoáng nóng, trong đó điểm nước khoáng Phước Mỹ có chất lượng nước cao để sản xuất nước giải khát; điểm nước nóng Hội Vân đã được khai thác sử dụng từ năm 1976, được đánh giá các tiêu chuẩn đặc hiệu chữa bệnh và có thể dùng để phát triển điện địa nhiệt…
Hiện nay, Bình Định đã và đang tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tốc độ đầu tư xây dựng theo quy hoạch 8 KCN (chưa tính các KCN trong KKT Nhơn Hội) với tổng diện tích quy hoạch là 1.761 ha, 55 cụm công nghiệp với tổng diện tích 1.847,7 ha, đặc biệt là Khu kinh tế Nhơn Hội (14.308 ha, trong đó Khu Đô thị – Công nghiệp – Dịch vụ Becamex Bình Định có diện tích 2,308 ha); tập trung xây dựng Thành phố Quy Nhơn (đô thị loại I thuộc tỉnh) trở thành trung tâm tăng trưởng phía Nam của vùng và đầu mối giao thông phục vụ trực tiếp cho khu vực miền Trung – Tây Nguyên; xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng lớn để gắn kết với các khu vực lân cận theo trục Bắc – Nam và Đông Tây; phát triển các ngành kinh tế trọng điểm mà tỉnh có lợi thế là công nghiệp chế biến lâm – nông – thuỷ sản, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, giày da, may mặc, cơ khí, cảng biển nước sâu, sản xuất lắp ráp đồ điện, điện tử, sản xuất điện, phát triển du lịch, dịch vụ hàng hải, thương mại, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bưu chính, viễn thông….
Trong điều kiện kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn, ngân sách còn hạn chế nhưng các lĩnh vực văn hóa – xã hội vẫn được chăm lo tốt hơn, góp phần thiết thực vào việc bảo đảm an sinh xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, thông tin – tuyên truyền, báo chí, phát thanh, truyền hình tiếp tục được phát huy phục vụ cho phát triển kinh tế – xã hội và phục vụ đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. Phong trào thể dục thể thao quần chúng được duy trì và từng bước xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ vận động viên thể thao thành tích cao của một số môn có thế mạnh của tỉnh như võ thuật, điền kinh, bơi lội, bóng đá… Hoạt động du lịch của Bình Định cũng hết sức sôi động. Số khách du lịch đến tham quan, nghỉ dưỡng tại Bình Định ngày càng tăng. Một số dự án được tiếp tục đầu tư, nâng cấp cơ sở hạ tầng, nâng cao chất lượng phục vụ, đẩy mạnh nối kết tour du lịch với các tỉnh trong và ngoài nước như khu đô thị du lịch sinh thái FLC Quy Nhơn, Quần thể du lịch lịch sử sinh thái tâm linh Linh Phong, khu du lịch Eo Gió, Kỳ Co, Hòn Khô, các khách sạn Avani, FLC, BMC, Kim Cúc, Hương Việt, Hải Âu, Hoàng Gia, Sài Gòn – Quy Nhơn, Quy Nhơn, Hoàng Yến v.v…
Hoạt động văn hoá thông tin đáp ứng tốt hơn nhu cầu hưởng thụ của nhân dân, bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống được chú trọng. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được tiếp tục phát triển, hầu hết địa bàn dân cư được phủ sóng phát thanh và truyền hình. Nghệ thuật bài chòi Trung Bộ được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Mạng Bưu chính tiếp tục đảm bảo cung cấp các dịch vụ và đáp ứng kịp thời nhu cầu về chuyển phát thư, báo, các loại công văn giấy tờ, bưu phẩm, bưu kiện cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức và nhân dân; tỷ lệ xã có báo trong ngày khoảng 96%.
Giáo dục – đào tạo – dạy nghề phát triển mạnh về cơ sở vật chất, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo. Công tác xã hội hoá giáo dục được đẩy mạnh, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các loại đào tạo, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập và phát triển nguồn nhân lực. Toàn tỉnh có 2 trường đại học, 3 trường trung học chuyên nghiệp, 51 trường THPT, 145 trường THCS, 244 trường tiểu học và 220 trường mầm non, với gần 267 ngàn học sinh;. Hệ thống trung tâm học tập cộng đồng được xây dựng và hoạt động ngày càng năng động. Tỉnh Bình Định đã được Bộ GD-ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ năm 1998, đạt phổ cập THCS năm 2004, đạt chuẩn tiểu học đúng độ tuổi vào tháng 12.2005.
Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân có nhiều tiến bộ đã tích cực triển khai tốt công tác y tế dự phòng, kịp thời triển khai các biện pháp khẩn cấp phòng chống dịch bệnh nguy hiểm, không để xảy ra dịch bệnh lớn; công tác phòng chống dịch trên địa bàn tỉnh được quan tâm chỉ đạo và giám sát chặt chẽ. Thực hiện tốt việc khoanh vùng dịch, tuyên truyền vận động vệ sinh môi trường tại cộng đồng; chủ động điều tra, giám sát dịch tễ, nhất là các dịch bệnh mới và nguy hiểm. Chuẩn bị sẵn sàng thuốc, hóa chất, phương tiện, nhân lực và chủ động tích cực trong công tác phòng chống dịch trong khắc phục hậu quả lũ lụt. Tăng cường công tác khám chữa bệnh, nâng cao y đức, tinh thần trách nhiệm và thái độ phục vụ bệnh nhân gắn với nâng cao chất lượng chuyên môn, nâng cấp trang thiết bị. Đến nay đã có 100% trạm y tế có bác sỹ, 97,5% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 80,7% dân số tham gia bảo hiểm y tế, 30.2 giường/ vạn dân. Thường xuyên đẩy mạnh công tác tư vấn về chăm sóc sức khoẻ sinh sản và phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em. Thực hiện tốt Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em; tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi giảm xuống còn 9,7% (số liệu năm 2018).
Hoạt động khoa học và công nghệ tập trung vào việc nghiên cứu, ứng dụng nhằm sử dụng có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, góp phần tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Nhiều tiến bộ khoa học công nghệ được ứng dụng đem lại hiệu quả thiết thực như giống mới, kỹ thuật canh tác phòng trừ dịch, hại tổng hợp, thay đổi mùa vụ, cơ cấu cây trồng. Nhìn chung, hoạt động khoa học và công nghệ trên một số lĩnh vực công nghệ sinh học, kiểm định, đo lường chất lượng sản phẩm, hàng hóa có cố gắng phục vụ cho yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội.
Với các điều kiện địa lý kinh tế, hạ tầng kỹ thuật cùng các cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế- xã hội, chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp – dịch vụ, Bình Định có đủ điều kiện để phát triển kinh tế nói chung, phát triển công nghiệp – dịch vụ nói riêng trong tương lai./.
Ban biên tập (tổng hợp)
Cổng TTĐT tỉnh